Hạnh phúc lớn nhất của các cặp vợ chồng là có ít nhất một đứa con với  dịch - Hạnh phúc lớn nhất của các cặp vợ chồng là có ít nhất một đứa con với  Việt làm thế nào để nói

Hạnh phúc lớn nhất của các cặp vợ c

Hạnh phúc lớn nhất của các cặp vợ chồng là có ít nhất một đứa con với nhau. Đó là kết quả của tình yêu mà cả hai cố công cùng vun đấp. Đối với những cặp vợ chồng có đầy đủ chức năng để được làm cha, làm mẹ thì không khó để có được những đứa con của họ. Nhưng có lẽ là điều bất hạnh lớn nhất với những cặp vợ chồng trong đó có hoặc vợ, hoặc chồng không có khả năng sinh con. Mong muốn có một đứa con chung của họ để có một gia đình với đúng nghĩa của nó chỉ là hy vọng trước khi việc “mang thai hộ” ra đời. Việc “mang thai hộ” này là một trong những vấn đề nóng bỏng đã và đang thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội.

Một gia đình hoàn chỉnh là một gia đình không thể thiếu vắng tiếng cười trẻ thơ. Mặc dù không có ai quy định như thế là đúng nhưng ai cũng hiểu và công nhận nó. Và là nỗi sợ hãy cho những cặp vợ chồng đã lấy nhau nhiều năm mà chưa sinh được đứa con cho mình. Xin con nuôi cũng là một giải pháp nhưng nhận thức của con người chưa thoát khỏi định kiến của xã hội và phong tục tập quán. Vì đứa con nuôi của họ không có cùng huyết thống nên những hậu quả mà nó mang lại từ giải pháp này không phải lúc nào cũng như mong đợi đối với không những đứa con nuôi và cả cha, mẹ nuôi của chúng. Do nhu cầu của những gia đình do người vợ không có con hoặc không thể mang thai mà cần có con nhưng phải có cùng huyết thống nên họ phải tìm và chọn một người phụ nữ thích hợp để nhờ sinh con bằng cách để người chồng giao hợp hay bơm tinh trùng vào tử cung người phụ nữ này để có thai và đứa con sinh ra sẽ mang huyết thống của người chồng. Đây được xem như là nguồn gốc của “việc mang thai hộ”.
Mặc dù, phương pháp này có tiến bộ hơn phương pháp trước, vì có được đứa con có thể mang huyết thống của người cha. Nhưng vấn đề là người phụ nữ nhờ mang thai hộ và đứa con được sinh ra từ phương pháp này cũng như người cha, người mẹ của chúng có mối quan hệ như thế nào? Đây là vấn đề vẫn chưa được luật pháp và đạo đức xã hội chấp nhận.
Việc “mang thai hộ” đã xuất hiện từ lâu nhưng chưa được xã hội ủng hộ và luật pháp cho phép. Mặc dù vậy nó vẫn tồn tại và phát triển. Cho đến khi phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm được ra đời vào năm 1985 tại Mỹ thì việc “mang thai hộ”đã trở nên phổ biến và sớm được công nhận ở một số nước trên thế giới. Thực chất của phương pháp này là cho phép lấy tinh trùng và noãn của cặp vợ chồng ra khỏi cơ thể, cho tinh trùng và noãn thụ tinh trong ống nghiệm để tạo phôi, sau đó nuôi cấy phôi và đưa phôi vào tử cung của một người phụ nữ khác để nhờ mang thai và sau đó sẽ sinh con. Đứa con sinh ra sẽ mang huyết thông của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ.
Riêng ở VN, PP này chính thức được công bố vào năm 1998 và được Bộ Y Tế cho phép. Luật HNVGD năm 2000 chưa có quy định nào về vấn đề mang thai hộ, nhưng đến năm 2003 việc mang thai hộ đã bị cấm do Nghị định số 12/2003/NĐ-CP của Chính phủ ra đời. Tại khoản 1 điều 6, Nghị định 12/2003/NĐ-CP của Chính phủ quy định nghiêm cấm mang thai hộ, Mặc dù luật không cho phép nhưng trên thực tế việc mang thai hộ dẫn diễn ra ngày càng nhiều do nhu cầu thực sự của những cặp vợ chồng bị vô sinh ngày càng tăng. Để tránh sự cấm đoán của pháp luật, nhiều cặp vợ chồng này đã phải ra nước ngoài để thực hiện. Việc thực hiện ở nước ngoài gây rất nhiều tốn kém cho họ. Đối với những người không có đủ điều kiện ra nước ngoài thì đành chấp nhận việc thực hiện này theo cách bất hợp pháp. Chính vì lý do này, việc mang thai hộ ban đầu là vì mục đích đạo đã trở thành mục đích thương mại. Vì vậy, có nhiều vấn đề xảy ra sau khi đứa trẻ đuợc ra đời. Về mặt pháp lý, làm thế nào để xác định cha, mẹ, đứa trẻ được sinh, các quyền nhân thân, tài sản của đứa trẻ với những người có liên quan và cả người mang thai hộ.
Nghị định 45/2005/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế tại Điều 31: Vi phạm các quy định về sinh con theo phương pháp khoa học
Tại điểm a khoản 2 điều 31 trong Nghị đinh 45/2005/NĐ-CP quy định : Phạt tiền từ 20 đến 30 triệu VND đối với hành vi mang thai hộ.
Tôi nghĩ việc mang thai hộ cần được quy định rõ trong luật HNVGD vì ít ra cũng có cơ sở pháp lý để xác định mối quan hệ của người mang thai hộ, nhờ mang thai hộ và đứa con.




0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Việt) 1: [Sao chép]
Sao chép!
Hạnh phúc lớn nhất của các cặp vợ chồng là có ít nhất một đứa con với nội. Đó là kết tên của tình yêu mà đoàn Hải cố công cùng vun đấp. Đối với những cặp vợ chồng có đầy đủ chức năng tiếng được làm cha, các làm mẹ thì không khó tiếng có được những đứa con của họ. Nhưng có lẽ là Ban bất hạnh lớn nhất với những cặp vợ chồng trong đó có hoặc vợ, hoặc chồng không có gièm năng sinh con. Mong muốn có một đứa con chung của họ tiếng có một gia đình với đúng nghĩa của nó chỉ là hy vọng trước khi việc "mang thai hộ" ra đời. Việc "mang thai hộ" này là một trong những vấn đề nóng bỏng đã và đang thu hút sự quan tâm của dư biệt xã hội.Một gia đình hoàn chỉnh là một gia đình không Bulgaria thiếu vắng tiếng cười con thơ. Mặc dù không có ai quy định như thế là đúng nhưng ai cũng hiểu và công nhận nó. Và là nỗi sợ hãy cho những cặp vợ chồng đã lấy nội nhiều năm mà chưa sinh được đứa con cho mình. Xin con nuôi cũng là một giải pháp nhưng nhận ngữ của con người chưa thoát khỏi định kiến của xã hội và phong tục tổ quán. Vì đứa con nuôi của họ không có cùng huyết thống nên những tỉnh hậu tên mà nó mang lại từ giải pháp này không phải lúc nào cũng như mong đợi đối với không những đứa con nuôi và đoàn cha, mẹ nuôi của chúng. Do nhu cầu của những gia đình làm người vợ không có con hoặc không Bulgaria mang Thái mà cần có con nhưng phải có cùng huyết thống nên xây phải tìm và chọn một người phụ nữ thích hợp tiếng nhờ sinh con bằng cách tiếng người chồng giao hợp hay bơm tinh trùng vào nên cung người phụ nữ này tiếng có Thái và đứa con sinh ra sẽ mang huyết thống của người chồng. Đây được xem như là nguồn gốc của "việc mang thai hộ".Mặc dù, phương pháp này có tiến bộ hơn phương pháp trước, vì có được đứa con có Bulgaria mang huyết thống của người cha. Nhưng vấn đề là người phụ nữ nhờ mang thai hộ và đứa con được sinh ra từ phương pháp này cũng như người cha, người mẹ của chúng có mối quan hay như thế nào? Đây là vấn đề vẫn chưa được luật pháp và đạo đức xã hội chấp nhận.Việc "mang thai hộ" đã cạnh hiện từ lâu nhưng chưa được xã hội ủng hộ và luật pháp cho phép. Mặc dù vậy nó vẫn tồn tại và phát triển. Cho đến khi phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm được ra đời vào năm 1985 tại Mỹ thì việc "mang thai hộ" đã trở nên phổ biến và sớm được công nhận ở một số nước trên thế giới. Thực chất của phương pháp này là cho phép lấy tinh trùng và noãn của cặp vợ chồng ra khỏi cơ Bulgaria, cho tinh trùng và noãn thụ tinh trong ống nghiệm tiếng chức phôi, sau đó nuôi cấy phôi và đưa phôi vào bà cung của một người phụ nữ ông tiếng nhờ mang thai và sau đó sẽ sinh con. Đứa con sinh ra sẽ mang huyết thông của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ. Riêng ở Việt Nam, PP này chính ngữ được công cách vào năm 1998 và được Bộ Y Tế cho phép. Luật HNVGD năm 2000 chưa có quy định nào về vấn đề mang thai hộ, nhưng đến năm 2003 việc mang thai hộ đã bị cấm làm Nghị định số 12/2003/NĐ-CP của Chính phủ ra đời. Tại khoản 1 ban 6, các Nghị định 12/2003/NĐ-CP của Chính phủ quy định nghiêm cấm mang thai hộ, Mặc dù luật không cho phép nhưng trên thực tế việc mang thai hộ dẫn lại ra ngày càng nhiều làm nhu cầu thực sự của những cặp vợ chồng bị vô sinh ngày càng tăng. Để tránh sự cấm đoán của pháp luật, nhiều cặp vợ chồng này đã phải ra nước ngoài tiếng thực hiện. Việc thực hiện ở nước ngoài gây rất nhiều tốn kém cho họ. Đối với những người không có đủ ban kiện ra nước ngoài thì đành chấp nhận việc thực hiện này theo cách bất hợp pháp. Chính vì lý do này, việc mang thai hộ ban đầu là vì mục đích đạo đã trở thành mục đích thương mại. Vì vậy, có nhiều vấn đề xảy ra sau khi đứa con đuợc ra đời. Về mặt pháp lý, làm thế nào tiếng xác định cha, mẹ, đứa con được sinh, các quyền nhân thân, tài ở của đứa con với những người có liên quan và đoàn người mang thai hộ. Nghị định 45/2005/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế tại Điều 31: Vi phạm các quy định về sinh con theo phương pháp khoa họcTại điểm một khoản 2 ban 31 trong Nghị đinh 45/2005/NĐ-CP quy định: Phạt tiền từ 20 đến 30 triệu đồng đối với hành vi mang của Thái hộ.Tôi nghĩ việc mang thai hộ cần được quy định rõ trong luật HNVGD vì ít ra cũng có cơ sở pháp lý tiếng xác định mối quan hay của người mang thai hộ, nhờ mang thai hộ và đứa con.
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Việt) 2:[Sao chép]
Sao chép!
Hạnh phúc lớn nhất of the cặp vợ chồng is have at least one đứa con for nhau. Which is kết quả của tình yêu which is both cố công vun đắp cùng. With those cặp vợ chồng no đầy đủ chức năng để được làm cha, làm mẹ thì no problem for has been the following đứa con their. But might as điều bất hạnh lớn nhất for those cặp vợ chồng in which has or vợ, chồng or can not be able to sinh con. Mong muốn have an đứa con chung their to have a gia đình for đúng nghĩa của it is chỉ hy vọng before việc "mang hộ Thái" ra đời. Việc "Thái hộ mang" this is one of those vấn đề nóng bỏng have and đang thu hút sự quan tâm dư luận of xã hội. Một gia đình hoàn chỉnh as a gia đình not missing vắng tiếng cười trẻ thơ. Mặc even without ai quy định thế such as is true but also ai hiểu and công nhận it. And is nỗi sợ use for the cặp vợ chồng lấy nhau have many năm which is not been sinh đứa con cho mình. Xin con nuôi also one giải pháp but nhận thức của con người chưa quit định kiến xã hội and the phong tục tập quán. Vì đứa con nuôi their does not have the same huyết thống be those hậu quả which it mang lại từ giải pháp this is not an lúc nào cũng mong đợi like for 'can not those đứa con nuôi and cả cha, mẹ nuôi of us. Do nhu cầu of the following gia đình làm người vợ do not have con or not mang Thái which requires con but must be cùng huyết thống be they must be found and choose one người phụ nữ thích hợp for nhờ sinh con bằng cách for người chồng giao hợp hay bơm tinh trùng vào tử cung người phụ nữ this for you and đứa con Thái sinh ra would mang huyết thống of người chồng. Đây been xem as nguồn gốc của "việc mang hộ Thái". Mặc though, phương pháp this has tiến bộ than phương pháp trước, because you been đứa con be mang huyết thống of người cha. But vấn đề is người phụ nữ nhờ mang hộ Thái and đứa con be sinh ra từ phương pháp this as well as người cha, người mẹ of them have mối quan hệ such as thế nào? This is a matter retained not luật pháp and đạo đức xã hội chấp nhận. Việc "mang hộ Thái" have xuất hiện từ lâu but not xã hội ủng hộ and luật pháp cho phép. Mặc though vậy it still exists and phát triển. Until phương pháp thụ tinh ống nghiệm in been ra đời vào năm 1985 tại Mỹ thì việc "mang hộ Thái" have become be phổ biến and soon be công nhận out of some nước Trên thế giới. Thực chất phương pháp of this is permitted lấy tinh trùng and noãn of cặp vợ chồng from cơ thể, cho tinh trùng thụ tinh noãn and in ống nghiệm to create a phôi, then nuôi cấy phôi and produce phôi vào tử cung the one người phụ nữ khác to nhờ mang Thái or later will sinh con. Đứa con sinh ra would mang huyết thông of cặp vợ chồng nhờ mang hộ Thái. Riêng ở VN, PP this chính thức công bố been vào năm 1998 and are Bộ Y Tế cho phép. Luật HNVGD năm 2000 not have quy định nào về vấn đề mang hộ Thái, but to năm 2003 việc mang hộ Thái has been cấm làm Nghị định số 12/2003 / NĐ-CP Chính phủ of ra đời. Tài khoản 1 điều 6, Nghị định 12/2003 / NĐ-CP Chính phủ quy of định nghiêm cấm mang hộ Thái, Mặc though luật not allowed but on the thực tế việc mang hộ Thái dẫn diễn ra ngày as many làm nhu cầu thực sự of the following cặp vợ chồng bị vô sinh ngày as increase. To avoid sự cấm đoán of pháp luật, multiple cặp vợ chồng have right ra nước ngoài to execute. Việc thực hiện out nước ngoài result many tốn kém cho them. With those người do not have điều kiện ra nước ngoài thì đành chấp nhận việc thực hiện theo this cách bất hợp pháp. Chính reasons làm this, việc mang Thái hộ ban đầu is because the purpose đạo have become purpose thương mại. Vì vậy, has many vấn đề xảy ra after đứa trẻ ra đời Đước. Về mặt pháp lý, làm thế nào xác định for cha, mẹ, đứa trẻ sinh be, the quyền nhân thân, tài sản của đứa trẻ with the following user has liên quan and cả người mang hộ Thái. Nghị định 45/2005 / NĐ -CP quy định xử phạt hành chính lĩnh vực in y tế tại Điều 31: Vi phạm quy định về the sinh con theo phương pháp khoa học Tại điểm a khoản 2 điều 31 Nghị đinh in 45/2005 / NĐ-CP quy định: Phạt tiền từ 20 đến 30 triệu đồng against hành vi mang hộ Thái. Tôi think việc mang Thái hộ cần been quy định rõ in luật HNVGD since ít ra also cơ sở pháp lý xác định for mối quan hệ of người mang hộ Thái , nhờ mang hộ Thái and đứa con.












đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2024 I Love Translation. All reserved.

E-mail: