Hình 2: Hệ thống chính sách quản lý thiên tai tại Việt Nam (Nguồn: DMC) Mỗi Bộ ngành có ban riêng của mình để chống lụt bão mà phối hợp với Ủy ban trung ương quốc gia và các cơ quan cấp tỉnh. Theo chức năng của riêng mình và nhiệm vụ, các Bộ, ngành và các tổ chức địa phương đang chịu trách nhiệm triển khai thực hiện có hiệu quả các nội dung có liên quan, các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp được nêu trong Chiến lược. Bộ NN & PTNT và các CCFSC chủ trì việc thực hiện Chiến lược quốc gia phòng chống thiên tai, ứng phó và giảm thiểu đến năm 2020. Việc thực hiện Chiến lược được thúc giục bởi các quy định khác trong Bộ, ngành, địa phương. CCFSC đóng vai trò là cơ quan đầu mối quốc gia với cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực này. Trách nhiệm thực hiện cụ thể đã được phân công cho các Bộ, ngành, địa phương và các tổ chức, như sau: Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, hoạt động phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban Trung ương phòng chống lụt bão, National Ủy ban Tìm kiếm Cứu nạn và các Bộ có liên quan khác và các lĩnh vực để cân bằng và bố trí các nguồn lực đầu tư hàng năm theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước và các nguồn vốn khác để thực hiện có hiệu quả Chiến lược DRM. Bộ NN & PTNT có trách nhiệm kiểm tra, đánh giá việc thực hiện Chiến lược của các Bộ, ngành, địa phương và các tổ chức. Nó tiến hành xem xét việc thực hiện Chiến lược hàng năm và năm năm một lần rút kinh nghiệm và đề nghị Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh phù hợp với các nội dung, giải pháp của Chiến lược. Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ cho Bộ Môi trường và Tài nguyên (TN & MT) với chuẩn bị Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) về biến đổi khí hậu, đã được phê duyệt theo Quyết định 158 vào tháng Mười Hai năm 2008. NTP được xác định một tập hợp các hành động từ Trung ương đến các nỗ lực thích ứng ở cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã sau một ba giai đoạn tiếp cận: giai đoạn đầu tiên (2009-2010), bắt đầu lên; Giai đoạn thứ hai (2011-2015), triển khai thực hiện; và giai đoạn thứ ba (sau 2015), phát triển. Đó là một trách nhiệm rõ ràng của Bộ TN & MT hướng dẫn và hỗ trợ các bộ, ngành và các tỉnh trong việc phát triển và thực hiện các kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu. Bộ Kế hoạch Đầu tư (MPI) đã chủ trì và phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương để phát triển một quy trình khung tiêu chuẩn và hướng dẫn việc lồng ghép vấn đề biến đổi khí hậu vào các chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, các chương trình và kế hoạch. Cuối cùng, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố lớn mình cần xây dựng và thực hiện kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu tại các tỉnh và thành phố của họ. Sau 7 năm kể từ khởi đầu của nó, vào năm 2015, đã có những hoạt động rất hạn chế đã được thực hiện tại khu vực đô thị, và lucking những sự hợp tác giữa Bộ TN & MT và Bộ NN & PTNT về DRR và CCA. Tại khu vực và cấp tỉnh, phó với biến đổi khí hậu chưa được giải quyết một cách hệ thống. Bộ Xây dựng và Bộ Kế hoạch và Đầu tư: ảnh hưởng tới các mẫu đô thị và nguồn lực thực hiện. Bộ Xây dựng là một cầu thủ quan trọng trong việc ảnh hưởng hình thái đô thị mà các thành phố ở Việt Nam đang dùng, trong việc cung cấp các hướng dẫn và quy định liên quan để xây dựng mã số và quy hoạch tổng thể. Một thành phần phát triển đô thị (SDU thành phần) bền vững do Danida tài trợ đang hỗ trợ Bộ Xây dựng với việc chuẩn bị một Sổ tay về quy hoạch đô thị và thiết kế với tham chiếu đến biến đổi khí hậu giảm nhẹ và thích ứng với những cân nhắc. Gần đây, Bộ Xây dựng đã ban hành quyết định 2623 / BXD, trong đó yêu cầu các thành phố để lồng ghép biến đổi khí hậu đô thị, giảm nhẹ rủi ro thiên tai đô thị vào quy hoạch tổng thể và quy hoạch đô thị. Nghị định của Chính phủ số 61/2003 / NĐ-CP ngày 6 tháng 6 năm 2003 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ KH & ĐT. Bộ KH & ĐT là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kế hoạch và đầu tư, bao gồm cả việc cung cấp các lời khuyên chung về chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội quốc gia, về cơ chế, chính sách quản lý kinh tế chung và một số các lĩnh vực cụ thể, về đầu tư trong nước và ngoài nước, khu công nghiệp, khu chế xuất, về quản lý chính thức nguồn hỗ trợ phát triển (ODA), đấu thầu, doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh trong cả nước; thực hiện quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc Bộ quản lý theo quy định của pháp luật. 1. Những thách thức về thực hành DRR đô thị và các công cụ cho DRR đô thị 1.1. Những thách thức về thực hành DRR đô thị Kinh nghiệm từ các học viên, những người đã làm việc trong các khu vực đô thị trên các lĩnh vực DRR và CCA thông qua thí điểm ở một số thành phố chỉ ra rằng việc thực hiện đã tiết lộ một số thách thức như sau. • Các cộng đồng đô thị có mức độ phức tạp của nhân khẩu học. Các trái phiếu này có thể kết nối các thành viên cộng đồng đô thị là yếu hơn, và như vậy là những giữa các cộng đồng và các khu vực họ sinh sống. Điều này là do những người sống trong các cộng đồng đô thị thường đến từ nhiều nơi khác nhau, không có kết nối dài thành lập, và thường không biết nhau hoặc có một sự hiểu biết mạnh mẽ của lịch sử thiên tai trong khu phố của mình. • Những khó khăn trong việc tham gia tham gia do sự khác biệt trong mức thu nhập, mức sống, và lối sống của đô thị so với dân cư nông thôn. Không giống như ở các khu vực nông thôn, những người sống ở các thành phố thường phải đi làm xa để làm việc, và kiểm soát chặt chẽ hơn bởi giờ làm việc, cho dù họ là nhân viên hành chính hay công nhân. • Hệ thống nhạy cảm và cộng đồng: hệ thống đô thị phức tạp hơn, và nhạy cảm hơn các yếu tố bên ngoài sự kiểm soát hành chính trực tiếp của các phường / xã được đánh giá. Ví dụ, khi nhìn vào hệ thống cấp nước của thành phố ở hạ lưu, chúng ta cần phải xem xét ảnh hưởng ở quy mô vùng đầu nguồn. • Thiếu các công cụ để đánh giá tác động của các tổ chức địa phương, bao gồm các luật, quy định, quy tắc xã hội, mức độ phân cấp quản lý và truy cập thông tin. • Khó khăn trong việc huy động hỗ trợ chính quyền địa phương: chính quyền địa phương đô thị đang chịu áp lực nhiều hơn và có nhiều ưu tiên, bao gồm các ưu tiên phát triển kinh tế xã hội. Các nhà lãnh đạo chính quyền địa phương có thể không đồng ý với biện pháp thích ứng đề xuất bởi vì họ không xem xét ưu tiên hàng đầu của họ. • Tác động của quá trình đô thị cụ thể như công nghiệp hóa. Tác động của đô thị hóa có xu hướng lớn hơn những thiên tai hay biến đổi khí hậu một mình. Ví dụ, xây dựng và phát triển đô thị có thể là nguyên nhân trực tiếp của lũ lụt nghiêm trọng khi một cơn bão xảy ra. Nó là rất khó khăn cho kế hoạch DRR để bắt kịp với quá trình đô thị hóa nhanh chóng này. • Nguồn nhân lực: Không có đủ học viên và hỗ với kinh nghiệm trong quy hoạch đô thị DRR. 1.2. Các công cụ hiện cho DRR đô thị: hạn chế và giải pháp học, đặc biệt là Hội chữ thập đỏ và nhiều tổ chức khác ở Việt Nam thường sử dụng một tập hợp các công cụ chính. Các quyết định về những công cụ để sử dụng và làm thế nào để sử dụng chúng phụ thuộc vào nhu cầu cụ thể của từng địa phương, cũng như thời gian sẵn có và nhân lực, tài chính và nguồn lực vật chất. Quan trọng hơn, các diễn viên địa phương cần được hỗ trợ trong việc thực hiện các hành động tiếp theo được đề xuất bởi các Đánh giá tổn thương Capacity (VCA) phát hiện. Ngoài những khó khăn chung trong việc thực hiện VCA tại các khu vực đô thị như được mô tả trong phần trước, mỗi công cụ VCA cũng trình bày những hạn chế cụ thể . Công cụ VCA cụ thể và hạn chế của họ được mô tả trong bảng dưới đây (bảng 2).
đang được dịch, vui lòng đợi..
