This observation is consistent with our research results that supporti dịch - This observation is consistent with our research results that supporti Việt làm thế nào để nói

This observation is consistent with

This observation is consistent with our research results that supporting
technological development activities are too underdeveloped to assist SME growth. On the
28
other hand, those support policies seem to pay more attention to SOEs’ technological
research and development, rather than supporting and facilitating the sustainability and
growth of SMEs in private sector.
c. Inadequate Business and Legal Environment
* Market support factors: Land, legal framework, labour
According to the vnexpress.net (as at 6 Dec 2006), the Vietnamese growth
competitiveness index (GCI) has dropped to a rank of 104 in a list of 175 countries.
Despite the fact that Vietnam is one of the countries that have undertaken notable reforms
in public administrations, and gained some positive improvements in the business
environment, these achievements are not enough to sustain economic development as well
as enhance the competitiveness of the economy. From our research findings, there is clear
evidence that the existence of some inadequate business factors has obstructed the
development of a business environment in Vietnam. Basic business environmental factors
are not adequate for supporting SMEs. These business factors include: A poor level of
technology development, unskilled labour, insufficient capital for business activities, poor
land management, and inadequate quality of business support services for technology and
information.
* Poor quality of support services for SMEs
It could be said that due to many defective market factors, the current unfavorable
business environment does not allow SMEs to utilize their creativity and undertaken
further business expansion due to a lack of information about the legal and business
environment. Moreover, the results of our study indicate that SMEs are neglected by
consulting firms. As a result, they tend to seek guidance from unofficial sources or they
rely on their hired advisors for market information. Hence th ere is a gap between SMEs’
needs and the services available for SMEs.
d. Poor Support Infrastructure
A study reveals that the monopoly of SOEs in several key industries has led to
created unreasonable costs, such as high internet and telecommunication fees, utilities fees
and transportation fees for SMEs. As a result, business expenses in Vietnam are higher
than in other regional countries. These expenses include land rental and business premises
rental fees and other business expenses. According limited number of SMEs and other
business firms can access such funds.
29
e. Social and Cultural Environment
* Discrimination among business sectors
The research findings describe SMEs’ vital roles are not widely acknowledged by
the government and Vietnamese society. This is agreed by Le (2006) and Pham (2002). On
the other hand, SMEs have tended to be viewed negatively by labourers and the public as a
high-risk policy that would generate insecurity in the job market. As a result, it is very
tough for SMEs to attract qualified labour and access adequate support such as credit, land,
and other external resources. Negative social perceptions towards the roles of SMEs would
have a significant influence on the development of this private business sector and
discourage SMEs from business development in many ways. Although the current legal
regimes do ensure fairness of competition between the public and private business sectors,
so called “unwritten laws” of discrimination against SMEs still exist strongly in society.
Operating in such unfavorable environment, together with defective supporting
institutional developments, inadequate regulatory frameworks and the SMEs’ poor internal
resources, it is obvious that SMEs are struggling to survive and develop.
* Strong uncertainty avoidance and attitudes of mistrust
Our findings show that strong uncertainty avoidance and attitudes of mistrust exist
among SMEs and other business entities. Having no reliable information about business
opportunities for cooperation, poor internal resources, and social discrimination against
them may also deter SMEs from seeking the opportunity to establish strategic alliances,
business cooperation with other firms and financial supporting institutions and to achieve
better performance. This finding is consistent with the findings from Nguyen, Le, and
Freeman (2006) and Ha and Swierczek (2003).
f. Presence of business clusters and networks
According to the results of our study, there are no strong linkages between SMEs
and other supporting agencies. As stated by a respondent, “Linkages between academic
and research institutions, universities, supporting organizations, and SMEs are still
questionable”. SMEs and those institutions tend not to seek cooperation because of a lack
of mutual trust between them. SMEs still consider that they are self -contained firms, so
that they prefer not to form any clusters or to develop linkages and networks.
Numerous studies, such as McMillan and Woodruff (1999), Nguyen (2005),
Nguyen et al. (2005), and Nguyen et al. (2006), indicate that trust is an important factor for
cluster and network development which may help to facilitate the development of
30
necessary supporting infrastructure. According to the VNCI project and building
Vietnamese competitiveness (VNCI-1, 2003, p.2), “Efforts on building commercial
collaboration among cluster members were limited. As a result, the foundation for trust
and cooperation among cluster member were not significant enhanced. The effectiveness of
forming a broad partnership with key cluster champions, including association leaders,
local governments, VCCI, universities and other donor is low.”
g. Access to information and global networks for cooperation
Our research findings reveal that most of the information for SMEs is from
informal sources. This is consistent with Webster and Taussig (1999), Harvie (2001), Ho et
al. (2002), Vu (2001), and Pham (2002). According to a respondent in our study,
information about market, opportunity for SMEs, the importance of strategic plan and trade
policies are not widely revealed to SMEs by the concerned parties. SMEs have limited
access to market information and information.
Harvie (2001) observes that most information is obtained through the media or by
personal contacts of firms, and not through formal channels. Only the more dynamic SMEs
tend to get in touch with formal organizations like the SMEs club, the VCCI and the
various trade associations for information. As a result, SMEs may face problems of
missing out on business opportunities and cooperation or being deceived by their overseas
partners due to the lack of reliable information.
h. Other constraints
A joint study by Vietnam’s Institute of Labor Sciences and Social Affairs, the
Asian Regional Team for Employment Promotion of the International Labor Organization,
and the Swedish International Development Authority (ILSSA-ILO-SIDA 1993) reveals
that besides the lack of capital and a clear government policy, Vietnamese SMEs are faced
with problems in marketing and distribution, market limitation, a lack of power supply,
market competition, and a shortage of materials.
Furthermore, they suffer from high input costs such as office rental, transportation,
social security payments, accessing material goods, equipment, etc. (Business Issues
Bulletin, 2004). SMEs in the private sector suffer even more constraints due to remarkably
negative public opinion toward them as a result of misinformation from the media, which
is the main source of information about the private sector in Vietnam (Galaxy Ltd. Co ,
1999). They are perceived to be unstable, vulnerable to bankruptcy, exploitative of their
employees, dishonest, opportunistic, incompetent, and non-contributive to the nation; thus,
31
they are the least desirable employers as well as the least preferred applicants f or funds
(Galaxy Ltd. Co, 1999). Meanwhile, entrepreneurs report that severe competition,
unreliable employees, and the inability to obtain short-term and long-term capital are their
most serious problems (Benzing et al, 2005)
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Việt) 1: [Sao chép]
Sao chép!
Quan sát này là phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi kết quả đó hỗ trợ Các hoạt động phát triển công nghệ là quá kém phát triển để hỗ trợ phát triển DNNVV. Trên các 28mặt khác, những người hỗ trợ chính sách có vẻ phải quan tâm hơn đến nhà công nghệ nghiên cứu và phát triển, thay vì hỗ trợ và tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững và sự phát triển của DNN & v trong khu vực tư nhân.c. không đủ kinh doanh và môi trường Pháp lý* Thị trường yếu tố hỗ trợ: đất, khung pháp lý, lao độngTheo vnexpress.net (như lúc 6 tháng mười hai năm 2006), sự phát triển Việt Nam chỉ số năng lực cạnh tranh (GCI) đã giảm xuống một hạng 104 trong danh sách các nước 175. Mặc dù thực tế rằng Việt Nam là một trong các quốc gia đã thực hiện cải cách đáng chú ý trong chính quyền khu vực, và đã đạt được một số cải tiến tích cực trong kinh doanh môi trường, những thành tựu là không đủ để duy trì phát triển kinh tế như nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Từ kết quả nghiên cứu của chúng tôi, đó là rõ ràng bằng chứng cho thấy sự tồn tại của một số yếu tố không đủ kinh doanh đã cản trở cácphát triển của một môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Yếu tố môi trường kinh doanh cơ bản là không đủ để hỗ trợ DNN & v. Các yếu tố kinh doanh bao gồm: độ nghèo phát triển công nghệ, không có kỹ năng lao động, vốn không đủ cho hoạt động kinh doanh, người nghèo đất quản lý, và không đủ chất lượng dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp cho công nghệ và thông tin.* Kém chất lượng dịch vụ hỗ trợ trong lĩnh vực DNNVVNó có thể nói rằng do nhiều khiếm khuyết thị trường yếu tố, hiện nay bất lợi môi trường kinh doanh không cho phép các DNVVN để sử dụng sáng tạo của họ và thực hiện tiếp tục mở rộng kinh doanh do thiếu các thông tin về pháp lý và kinh doanh môi trường. Hơn nữa, các kết quả của nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng DNN & v được bỏ rơi bởi công ty tư vấn. Kết quả là, họ có xu hướng tìm kiếm hướng dẫn từ các nguồn không chính thức hoặc họ Dựa trên cố vấn thuê của họ để thông tin thị trường. Do đó th đây là một khoảng cách giữa DNN nhu cầu và dịch vụ trong lĩnh vực DNNVV.mất nghèo hỗ trợ cơ sở hạ tầngMột nghiên cứu cho thấy rằng sự độc quyền của nhà trong nhiều ngành công nghiệp chủ chốt đã dẫn đến tạo chi phí bất hợp lý, chẳng hạn như cao internet và viễn thông lệ phí, lệ phí tiện ích và chi phí vận chuyển cho doanh nghiệp nhỏ. Kết quả là, chi phí kinh doanh tại Việt Nam là cao hơn hơn ở các nước trong khu vực. Những chi phí bao gồm giá thuê đất và kinh doanh cơ sở cho thuê lệ phí và các chi phí kinh doanh. Theo giới hạn số lượng các DNVVN và khác công ty kinh doanh có thể truy cập vào các quỹ.29e. môi trường xã hội và văn hóa* Phân biệt đối xử giữa các lĩnh vực kinh doanhKết quả nghiên cứu mô tả DNN vai trò quan trọng không thừa nhận rộng rãi bởi chính phủ và xã hội Việt Nam. Điều này sự đồng ý của Le (2006) và phạm (2002). Ngày mặt khác, DNVVN có xu hướng được xem tiêu cực của người lao động và công chúng như là một nguy cơ cao chính sách đó sẽ tạo ra mất an ninh trong thị trường việc làm. Kết quả là, nó là rất khó khăn trong lĩnh vực DNNVV để thu hút đủ điều kiện lao động và quyền truy cập đầy đủ hỗ trợ như tín dụng, đất, và các nguồn lực bên ngoài. Nhận thức xã hội tiêu cực đối với vai trò của DNN & v nào có một ảnh hưởng đáng kể vào sự phát triển của khu vực doanh nghiệp tư nhân này và không khuyến khích DNNVV từ phát triển kinh doanh trong nhiều cách. Mặc dù pháp lý hiện tại chế độ đảm bảo công bằng của cuộc cạnh tranh giữa các lĩnh vực kinh doanh khu vực chung và riêng như vậy gọi là "luật pháp dưới" phân biệt đối xử đối với DNVVN vẫn còn tồn tại mạnh mẽ trong xã hội. Hoạt động trong môi trường không thuận lợi như vậy, cùng với hỗ trợ lỗi phát triển thể chế, khuôn khổ pháp lý không đầy đủ và các DNVVN nghèo nội bộ tài nguyên, nó là rõ ràng rằng DNVVN đang đấu tranh để tồn tại và phát triển.* Tránh sự không chắc chắn mạnh mẽ và Thái độ tin tưởngNhững phát hiện của chúng tôi hiển thị mạnh mẽ sự không chắc chắn tránh và Thái độ tin tưởng tồn tại trong số các DNVVN và các tổ chức kinh doanh khác. Có không có thông tin đáng tin cậy về kinh doanh cơ hội hợp tác, nghèo nguồn lực nội bộ, và xã hội phân biệt đối xử chống lại họ cũng có thể ngăn chặn DNVVN từ tìm kiếm cơ hội để thiết lập liên minh chiến lược, hợp tác kinh doanh với các công ty khác và các tổ chức hỗ trợ tài chính và để đạt được hiệu suất tốt hơn. Tìm kiếm này là phù hợp với những phát hiện từ Nguyễn, lê, và Freeman (2006) và Hà và Swierczek (2003).f. hiện diện của kinh doanh cụm và mạngTheo kết quả của nghiên cứu của chúng tôi, không có không có mối liên kết mạnh mẽ giữa DNVVN và các cơ quan hỗ trợ khác. Như đã nói bởi một người đăng, "mối liên kết giữa học tập và các viện nghiên cứu, trường đại học, hỗ trợ các tổ chức, và các DNNVV vẫn còn có vấn đề". DNVVN và các tổ chức những người có xu hướng không để tìm kiếm hợp tác vì thiếu độ tin cậy lẫn nhau giữa chúng. DNVVN vẫn coi họ là tự-có công ty, vì vậy rằng họ thích không tạo ra bất kỳ cụm hoặc phát triển các mối liên kết và mạng.Nhiều nghiên cứu, chẳng hạn như McMillan và Woodruff (1999), Nguyễn (2005), Nguyễn et al. (2005), và Nguyễn et al. (2006), chỉ ra rằng niềm tin là một yếu tố quan trọng nhất phát triển cụm và mạng mà có thể giúp đỡ để tạo thuận lợi cho sự phát triển của 30cơ sở hạ tầng hỗ trợ cần thiết. Theo dự án VNCI và xây dựng Năng lực cạnh tranh Việt Nam (VNCI-1, 2003, p.2), "nỗ lực vào việc xây dựng thương mại sự hợp tác giữa các thành viên cluster bị hạn chế. Kết quả là, là nền tảng cho sự tin tưởngvà hợp tác giữa các thành viên của cụm không đáng kể nâng cao. Hiệu quả của tạo thành một quan hệ đối tác rộng với vô địch chính cụm, bao gồm cả lãnh đạo Hiệp hội, chính quyền địa phương, VCCI, trường đại học và nhà tài trợ là thấp."g. truy cập vào thông tin và mạng lưới toàn cầu hợp tácKết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng hầu hết các thông tin cho DNN & v là từ nguồn không chính thức. Điều này là phù hợp với hồ và Taussig (1999), Harvie (2001), Ho et và những người khác (2002), Vu (2001), và phạm (2002). Theo một người đăng trong nghiên cứu của chúng tôi, thông tin về thị trường, cơ hội cho doanh nghiệp nhỏ, tầm quan trọng của kế hoạch chiến lược và thương mại chính sách không rộng rãi được tiết lộ để DNVVN bởi các bên liên quan. DNVVN có giới hạn truy cập vào thị trường thông tin và thông tin.Harvie (2001) quan sát rằng hầu hết thông tin được thu được thông qua các phương tiện truyền thông hoặc bằng danh bạ cá nhân của công ty, và không thông qua các kênh chính thức. Chỉ các DNVVN năng động hơn có xu hướng để liên lạc với các tổ chức chính thức như câu lạc bộ DNN & v, VCCI và các Hiệp hội thương mại khác nhau cho thông tin. Kết quả là, lĩnh vực DNNVV có thể đối mặt với các vấn đề của bỏ lỡ cơ hội kinh doanh và hợp tác hoặc bị lừa dối của của họ ở nước ngoài đối tác do thiếu thông tin đáng tin cậy.h. khác khó khăn Một nghiên cứu chung của Viện khoa học lao động của Việt Nam và các vấn đề xã hội, các Nhóm khu vực Châu á cho việc làm quảng cáo của tổ chức lao động quốc tế, và các cơ quan phát triển quốc tế Thụy Điển (ILSSA-ILO-SIDA 1993) cho thấy rằng bên cạnh việc thiếu vốn đầu tư và chính sách rõ ràng chính phủ, DNVVN Việt Nam đang phải đối mặt có vấn đề về tiếp thị và phân phối, hạn chế thị trường, một thiếu nguồn cung cấp điện, thị trường cạnh tranh, và sự thiếu hụt vật liệu. Hơn nữa, họ bị chi phí đầu vào cao chẳng hạn như cho thuê văn phòng, giao thông vận tải, thanh toán an sinh xã hội, truy cập vào hàng hoá vật chất, thiết bị, vv (các vấn đề kinh doanh Bulletin, năm 2004). DNN & v trong khu vực tư nhân bị hạn chế hơn do đáng chú ý phủ định ý kiến công chúng về phía họ là kết quả của thông tin sai lạc từ giới truyền thông, mà là nguồn chính của các thông tin về khu vực tư nhân tại Việt Nam (Galaxy Ltd. Co,Năm 1999). họ được coi là không ổn định, dễ bị tổn thương đến phá sản, bóc lột của của họ nhân viên, không trung thực, cơ hội, không đủ năng lực, và phòng không-dân đến các quốc gia; do đó, 31họ là các nhà tuyển dụng ít nhất là mong muốn cũng như ít nhất là ưa thích ứng viên f hoặc tiền (Co Ltd Galaxy, 1999). Trong khi đó, doanh nhân báo cáo rằng đối thủ cạnh tranh nghiêm trọng, nhân viên không đáng tin cậy, và không có khả năng có được vốn ngắn hạn và dài hạn của họ vấn đề nghiêm trọng nhất (Benzing và ctv., 2005)
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Việt) 2:[Sao chép]
Sao chép!
Quan sát này là phù hợp với kết quả nghiên cứu của chúng tôi là hỗ trợ
các hoạt động phát triển công nghệ là quá kém phát triển để hỗ trợ tăng trưởng SME. Trên
28
Mặt khác, các chính sách hỗ trợ dường như quan tâm hơn nữa đến công nghệ của DNNN
nghiên cứu và phát triển, chứ không phải là ủng hộ và tạo thuận lợi cho sự bền vững và
tăng trưởng của các DNVVN trong khu vực tư nhân.
c. Kinh doanh không đầy đủ và Môi trường pháp lý
* yếu tố hỗ trợ thị trường: đất, khuôn khổ pháp lý, lao động
Theo vnexpress.net (tại ngày 06 tháng 12 năm 2006), tốc độ tăng trưởng Việt
chỉ số năng lực cạnh tranh (GCI) đã giảm xuống một cấp bậc của 104 trong danh sách 175 nước.
Mặc dù thực tế rằng Việt Nam là một trong những quốc gia đã thực hiện những cải cách đáng chú ý
trong hành chính công, và đã đạt được một số cải tiến tích cực trong kinh doanh
môi trường, những thành tựu này là không đủ để duy trì phát triển kinh tế cũng
như nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Từ kết quả nghiên cứu của chúng tôi, có rõ ràng
bằng chứng cho thấy sự tồn tại của một số yếu tố kinh doanh không đầy đủ đã cản trở
sự phát triển của một môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Các yếu tố môi trường kinh doanh cơ bản
là không đủ để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ. Những yếu tố kinh doanh bao gồm: Một mức kém
phát triển công nghệ, lao động phổ thông, không đủ vốn cho hoạt động kinh doanh, người nghèo
quản lý đất đai, và chất lượng không đầy đủ các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cho công nghệ và
. thông tin
* Chất lượng kém của dịch vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ
Có thể nói rằng do nhiều yếu tố thị trường khiếm khuyết, những bất lợi hiện nay
môi trường kinh doanh không cho phép doanh nghiệp nhỏ sử dụng sáng tạo của mình và thực hiện
việc mở rộng kinh doanh hơn nữa do thiếu thông tin về pháp lý và kinh doanh
môi trường. Hơn nữa, kết quả nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng các DNVVN đang bị bỏ quên bởi
công ty tư vấn. Kết quả là, họ có xu hướng tìm sự hướng dẫn từ các nguồn không chính thức hoặc họ
dựa vào các cố vấn đã thuê họ về thông tin thị trường. Do đó lần thứ ere là một khoảng cách giữa các DNNVV
với nhu cầu và các dịch vụ có sẵn cho các DNVVN.
d. Hỗ trợ cơ sở hạ tầng nghèo
Một nghiên cứu cho thấy rằng sự độc quyền của doanh nghiệp nhà nước trong một số ngành công nghiệp trọng điểm đã dẫn đến
chi phí không hợp lý tạo ra, chẳng hạn như internet cao và phí viễn thông, phí tiện ích
và chi phí vận chuyển cho các DNVVN. Kết quả là, chi phí kinh doanh tại Việt Nam cao
hơn các nước khác trong khu vực. Chi phí này bao gồm tiền thuê đất và mặt bằng kinh doanh
tiền thuê và chi phí kinh doanh khác. Theo số lượng hạn chế của các DNNVV và các
công ty kinh doanh có thể truy cập vào các quỹ như vậy.
29
e. Xã hội và Môi trường văn hóa
phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh doanh *
Các kết quả nghiên cứu mô tả vai trò quan trọng của DNNVV không được công nhận rộng rãi bởi
các chính phủ và xã hội Việt Nam. Đây là thỏa thuận của Lê (2006) và Phạm (2002). Trên
Mặt khác, doanh nghiệp nhỏ có xu hướng để có thể xem tiêu cực của người lao động và công chúng như là một
chính sách có nguy cơ cao sẽ tạo ra bất ổn trong thị trường việc làm. Kết quả là, nó là rất
khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ để thu hút lao động có trình độ và truy cập vào hỗ trợ đầy đủ như tín dụng, đất đai,
và các nguồn lực khác từ bên ngoài. Nhận thức của xã hội tiêu cực về vai trò của các doanh nghiệp nhỏ sẽ
có một ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của khu vực doanh nghiệp tư nhân này và
khuyến khích doanh nghiệp nhỏ từ sự phát triển kinh doanh trong nhiều cách. Mặc dù pháp luật hiện hành
, chế độ làm đảm bảo sự công bằng của cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngành công cộng và tư nhân,
cái gọi là "luật bất thành văn" phân biệt đối xử chống lại DNNVV vẫn tồn tại mạnh mẽ trong xã hội.
Hoạt động trong môi trường không thuận lợi như vậy, cùng với việc hỗ trợ khiếm khuyết
phát triển thể chế, khung pháp lý đầy đủ và nội bộ nghèo của SMEs
nguồn lực, nó là rõ ràng rằng các DNVVN đang phải vật lộn để tồn tại và phát triển.
* tránh sự không chắc chắn mạnh mẽ và thái độ ngờ vực
những phát hiện của chúng tôi cho thấy rằng việc tránh sự không chắc chắn mạnh mẽ và thái độ ngờ vực tồn tại
giữa các doanh nghiệp nhỏ và các tổ chức kinh doanh khác. Không có thông tin đáng tin cậy về kinh doanh
cơ hội hợp tác, nội lực kém, và phân biệt đối xử xã hội chống lại
chúng cũng có thể ngăn chặn các DNVVN trong việc tìm kiếm cơ hội để thành lập liên minh chiến lược,
hợp tác kinh doanh với các công ty khác và các tổ chức hỗ trợ tài chính và để đạt được
hiệu suất tốt hơn. Phát hiện này là phù hợp với những phát hiện từ Nguyễn, Lê, và
Freeman (2006) và Hà và Swierczek (2003).
f. Sự hiện diện của các cụm kinh doanh và mạng
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, không có mối liên kết mạnh mẽ giữa các doanh nghiệp nhỏ
và các cơ quan hỗ trợ khác. Như đã nói bởi một người trả lời, "Mối quan hệ giữa học
và các tổ chức nghiên cứu, các trường đại học, các tổ chức hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vẫn còn
có vấn đề ". Doanh nghiệp nhỏ và những tổ chức có xu hướng không để tìm kiếm hợp tác vì sự thiếu
tin tưởng lẫn nhau giữa chúng. DNNVV vẫn cho rằng họ là các doanh nghiệp khép kín, vì vậy
mà họ không thích để tạo thành bất kỳ cụm hoặc để phát triển các mối liên kết và các mạng.
Nhiều nghiên cứu, chẳng hạn như McMillan và Woodruff (1999), Nguyễn (2005),
Nguyễn et al. (2005), và Nguyễn et al. (2006), cho thấy sự tin tưởng đó là một yếu tố quan trọng đối với
cụm và mạng lưới phát triển mà có thể giúp thúc đẩy sự phát triển của
30
cơ sở hạ tầng hỗ trợ cần thiết. Theo dự án VNCI và xây dựng
năng lực cạnh tranh Việt Nam (VNCI-1, 2003, trang 2), "Những nỗ lực xây dựng thương mại
hợp tác giữa các thành viên nhóm đã được hạn chế. Kết quả là, các nền tảng cho sự tin tưởng
và hợp tác giữa các thành viên nhóm không có ý nghĩa nâng cao. Hiệu quả của
hình thành một quan hệ đối tác rộng rãi với các nhà vô địch cụm chính, bao gồm các nhà lãnh đạo hiệp hội,
chính quyền địa phương, VCCI, các trường đại học và các nhà tài trợ khác là thấp. "
g. Tiếp cận thông tin và mạng lưới toàn cầu cho sự hợp tác
kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng hầu hết các thông tin cho doanh nghiệp nhỏ là từ
các nguồn không chính thức. Điều này phù hợp với Webster và Taussig (1999), Harvie (2001), Hồ et
al. (2002), Vũ (2001), và Phạm (2002). Theo một người trả lời trong nghiên cứu của chúng tôi,
thông tin về thị trường, cơ hội cho các doanh nghiệp nhỏ, tầm quan trọng của kế hoạch và chiến lược thương mại
chính sách không được tiết lộ rộng rãi cho các SME của các bên liên quan. SMEs có hạn chế
tiếp cận thông tin thị trường và thông tin.
Harvie (2001) quan sát thấy rằng thông tin mới nhất có được thông qua các phương tiện truyền thông hoặc bằng cách
liên lạc cá nhân của các công ty, và không phải thông qua các kênh chính thức. Chỉ có các DNVVN năng động hơn
có xu hướng để liên lạc với các tổ chức chính thức như các câu lạc bộ doanh nghiệp nhỏ, VCCI và các
hiệp hội thương mại khác nhau để biết thông tin. Kết quả là, doanh nghiệp nhỏ có thể gặp phải các vấn đề về
bỏ lỡ cơ hội kinh doanh và hợp tác hoặc bị lừa dối bởi ở nước ngoài của họ
đối tác do thiếu thông tin đáng tin cậy.
h. Những khó khăn khác
Một nghiên cứu chung giữa Viện Việt Nam học Khoa học Lao động và Xã hội, các
đội khu vực châu Á cho Xúc tiến việc làm của Tổ chức Lao động quốc tế,
và Cơ quan Phát triển Quốc tế Thụy Điển (ILSSA-ILO-SIDA 1993) cho thấy
rằng bên cạnh việc thiếu vốn, một chính sách rõ ràng, các DNVVN Việt đang phải đối mặt
với các vấn đề trong tiếp thị và phân phối, giới hạn thị trường, một thiếu nguồn cung cấp năng lượng,
cạnh tranh thị trường, và việc thiếu nguyên liệu.
Hơn nữa, họ phải chịu từ chi phí đầu vào cao như cho thuê văn phòng, giao thông,
xã hội các khoản thanh toán bảo mật, truy cập vào hàng hóa vật chất, trang thiết bị, vv (Các vấn đề kinh doanh
Bulletin, 2004). DNVVN trong khu vực tư nhân phải chịu đựng nhiều hơn những hạn chế đáng kể do
dư luận tiêu cực đối với họ như là một kết quả của thông tin sai lệch từ các phương tiện truyền thông, đó
là nguồn thông tin chính về khu vực tư nhân ở Việt Nam (Galaxy TNHH Co,
1999). Họ được coi là không ổn định, dễ bị phá sản, bóc lột của họ
nhân viên, không trung thực, cơ hội, không đủ năng lực, và không contributive cho đất nước; do đó,
31
họ là những người sử dụng lao động ít nhất là mong muốn cũng như các ứng viên được ưa thích nhất f hoặc quỹ
(Galaxy TNHH Co, 1999). Trong khi đó, các doanh nghiệp báo cáo rằng sự cạnh tranh khốc liệt,
các nhân viên không đáng tin cậy, và không có khả năng để có được ngắn hạn và dài hạn là họ
vấn đề nghiêm trọng nhất (Benzing et al, 2005)
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2025 I Love Translation. All reserved.

E-mail: