Quan sát này là phù hợp với kết quả nghiên cứu của chúng tôi là hỗ trợ
các hoạt động phát triển công nghệ là quá kém phát triển để hỗ trợ tăng trưởng SME. Trên
28
Mặt khác, các chính sách hỗ trợ dường như quan tâm hơn nữa đến công nghệ của DNNN
nghiên cứu và phát triển, chứ không phải là ủng hộ và tạo thuận lợi cho sự bền vững và
tăng trưởng của các DNVVN trong khu vực tư nhân.
c. Kinh doanh không đầy đủ và Môi trường pháp lý
* yếu tố hỗ trợ thị trường: đất, khuôn khổ pháp lý, lao động
Theo vnexpress.net (tại ngày 06 tháng 12 năm 2006), tốc độ tăng trưởng Việt
chỉ số năng lực cạnh tranh (GCI) đã giảm xuống một cấp bậc của 104 trong danh sách 175 nước.
Mặc dù thực tế rằng Việt Nam là một trong những quốc gia đã thực hiện những cải cách đáng chú ý
trong hành chính công, và đã đạt được một số cải tiến tích cực trong kinh doanh
môi trường, những thành tựu này là không đủ để duy trì phát triển kinh tế cũng
như nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Từ kết quả nghiên cứu của chúng tôi, có rõ ràng
bằng chứng cho thấy sự tồn tại của một số yếu tố kinh doanh không đầy đủ đã cản trở
sự phát triển của một môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Các yếu tố môi trường kinh doanh cơ bản
là không đủ để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ. Những yếu tố kinh doanh bao gồm: Một mức kém
phát triển công nghệ, lao động phổ thông, không đủ vốn cho hoạt động kinh doanh, người nghèo
quản lý đất đai, và chất lượng không đầy đủ các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cho công nghệ và
. thông tin
* Chất lượng kém của dịch vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ
Có thể nói rằng do nhiều yếu tố thị trường khiếm khuyết, những bất lợi hiện nay
môi trường kinh doanh không cho phép doanh nghiệp nhỏ sử dụng sáng tạo của mình và thực hiện
việc mở rộng kinh doanh hơn nữa do thiếu thông tin về pháp lý và kinh doanh
môi trường. Hơn nữa, kết quả nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng các DNVVN đang bị bỏ quên bởi
công ty tư vấn. Kết quả là, họ có xu hướng tìm sự hướng dẫn từ các nguồn không chính thức hoặc họ
dựa vào các cố vấn đã thuê họ về thông tin thị trường. Do đó lần thứ ere là một khoảng cách giữa các DNNVV
với nhu cầu và các dịch vụ có sẵn cho các DNVVN.
d. Hỗ trợ cơ sở hạ tầng nghèo
Một nghiên cứu cho thấy rằng sự độc quyền của doanh nghiệp nhà nước trong một số ngành công nghiệp trọng điểm đã dẫn đến
chi phí không hợp lý tạo ra, chẳng hạn như internet cao và phí viễn thông, phí tiện ích
và chi phí vận chuyển cho các DNVVN. Kết quả là, chi phí kinh doanh tại Việt Nam cao
hơn các nước khác trong khu vực. Chi phí này bao gồm tiền thuê đất và mặt bằng kinh doanh
tiền thuê và chi phí kinh doanh khác. Theo số lượng hạn chế của các DNNVV và các
công ty kinh doanh có thể truy cập vào các quỹ như vậy.
29
e. Xã hội và Môi trường văn hóa
phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh doanh *
Các kết quả nghiên cứu mô tả vai trò quan trọng của DNNVV không được công nhận rộng rãi bởi
các chính phủ và xã hội Việt Nam. Đây là thỏa thuận của Lê (2006) và Phạm (2002). Trên
Mặt khác, doanh nghiệp nhỏ có xu hướng để có thể xem tiêu cực của người lao động và công chúng như là một
chính sách có nguy cơ cao sẽ tạo ra bất ổn trong thị trường việc làm. Kết quả là, nó là rất
khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ để thu hút lao động có trình độ và truy cập vào hỗ trợ đầy đủ như tín dụng, đất đai,
và các nguồn lực khác từ bên ngoài. Nhận thức của xã hội tiêu cực về vai trò của các doanh nghiệp nhỏ sẽ
có một ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của khu vực doanh nghiệp tư nhân này và
khuyến khích doanh nghiệp nhỏ từ sự phát triển kinh doanh trong nhiều cách. Mặc dù pháp luật hiện hành
, chế độ làm đảm bảo sự công bằng của cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngành công cộng và tư nhân,
cái gọi là "luật bất thành văn" phân biệt đối xử chống lại DNNVV vẫn tồn tại mạnh mẽ trong xã hội.
Hoạt động trong môi trường không thuận lợi như vậy, cùng với việc hỗ trợ khiếm khuyết
phát triển thể chế, khung pháp lý đầy đủ và nội bộ nghèo của SMEs
nguồn lực, nó là rõ ràng rằng các DNVVN đang phải vật lộn để tồn tại và phát triển.
* tránh sự không chắc chắn mạnh mẽ và thái độ ngờ vực
những phát hiện của chúng tôi cho thấy rằng việc tránh sự không chắc chắn mạnh mẽ và thái độ ngờ vực tồn tại
giữa các doanh nghiệp nhỏ và các tổ chức kinh doanh khác. Không có thông tin đáng tin cậy về kinh doanh
cơ hội hợp tác, nội lực kém, và phân biệt đối xử xã hội chống lại
chúng cũng có thể ngăn chặn các DNVVN trong việc tìm kiếm cơ hội để thành lập liên minh chiến lược,
hợp tác kinh doanh với các công ty khác và các tổ chức hỗ trợ tài chính và để đạt được
hiệu suất tốt hơn. Phát hiện này là phù hợp với những phát hiện từ Nguyễn, Lê, và
Freeman (2006) và Hà và Swierczek (2003).
f. Sự hiện diện của các cụm kinh doanh và mạng
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, không có mối liên kết mạnh mẽ giữa các doanh nghiệp nhỏ
và các cơ quan hỗ trợ khác. Như đã nói bởi một người trả lời, "Mối quan hệ giữa học
và các tổ chức nghiên cứu, các trường đại học, các tổ chức hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vẫn còn
có vấn đề ". Doanh nghiệp nhỏ và những tổ chức có xu hướng không để tìm kiếm hợp tác vì sự thiếu
tin tưởng lẫn nhau giữa chúng. DNNVV vẫn cho rằng họ là các doanh nghiệp khép kín, vì vậy
mà họ không thích để tạo thành bất kỳ cụm hoặc để phát triển các mối liên kết và các mạng.
Nhiều nghiên cứu, chẳng hạn như McMillan và Woodruff (1999), Nguyễn (2005),
Nguyễn et al. (2005), và Nguyễn et al. (2006), cho thấy sự tin tưởng đó là một yếu tố quan trọng đối với
cụm và mạng lưới phát triển mà có thể giúp thúc đẩy sự phát triển của
30
cơ sở hạ tầng hỗ trợ cần thiết. Theo dự án VNCI và xây dựng
năng lực cạnh tranh Việt Nam (VNCI-1, 2003, trang 2), "Những nỗ lực xây dựng thương mại
hợp tác giữa các thành viên nhóm đã được hạn chế. Kết quả là, các nền tảng cho sự tin tưởng
và hợp tác giữa các thành viên nhóm không có ý nghĩa nâng cao. Hiệu quả của
hình thành một quan hệ đối tác rộng rãi với các nhà vô địch cụm chính, bao gồm các nhà lãnh đạo hiệp hội,
chính quyền địa phương, VCCI, các trường đại học và các nhà tài trợ khác là thấp. "
g. Tiếp cận thông tin và mạng lưới toàn cầu cho sự hợp tác
kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng hầu hết các thông tin cho doanh nghiệp nhỏ là từ
các nguồn không chính thức. Điều này phù hợp với Webster và Taussig (1999), Harvie (2001), Hồ et
al. (2002), Vũ (2001), và Phạm (2002). Theo một người trả lời trong nghiên cứu của chúng tôi,
thông tin về thị trường, cơ hội cho các doanh nghiệp nhỏ, tầm quan trọng của kế hoạch và chiến lược thương mại
chính sách không được tiết lộ rộng rãi cho các SME của các bên liên quan. SMEs có hạn chế
tiếp cận thông tin thị trường và thông tin.
Harvie (2001) quan sát thấy rằng thông tin mới nhất có được thông qua các phương tiện truyền thông hoặc bằng cách
liên lạc cá nhân của các công ty, và không phải thông qua các kênh chính thức. Chỉ có các DNVVN năng động hơn
có xu hướng để liên lạc với các tổ chức chính thức như các câu lạc bộ doanh nghiệp nhỏ, VCCI và các
hiệp hội thương mại khác nhau để biết thông tin. Kết quả là, doanh nghiệp nhỏ có thể gặp phải các vấn đề về
bỏ lỡ cơ hội kinh doanh và hợp tác hoặc bị lừa dối bởi ở nước ngoài của họ
đối tác do thiếu thông tin đáng tin cậy.
h. Những khó khăn khác
Một nghiên cứu chung giữa Viện Việt Nam học Khoa học Lao động và Xã hội, các
đội khu vực châu Á cho Xúc tiến việc làm của Tổ chức Lao động quốc tế,
và Cơ quan Phát triển Quốc tế Thụy Điển (ILSSA-ILO-SIDA 1993) cho thấy
rằng bên cạnh việc thiếu vốn, một chính sách rõ ràng, các DNVVN Việt đang phải đối mặt
với các vấn đề trong tiếp thị và phân phối, giới hạn thị trường, một thiếu nguồn cung cấp năng lượng,
cạnh tranh thị trường, và việc thiếu nguyên liệu.
Hơn nữa, họ phải chịu từ chi phí đầu vào cao như cho thuê văn phòng, giao thông,
xã hội các khoản thanh toán bảo mật, truy cập vào hàng hóa vật chất, trang thiết bị, vv (Các vấn đề kinh doanh
Bulletin, 2004). DNVVN trong khu vực tư nhân phải chịu đựng nhiều hơn những hạn chế đáng kể do
dư luận tiêu cực đối với họ như là một kết quả của thông tin sai lệch từ các phương tiện truyền thông, đó
là nguồn thông tin chính về khu vực tư nhân ở Việt Nam (Galaxy TNHH Co,
1999). Họ được coi là không ổn định, dễ bị phá sản, bóc lột của họ
nhân viên, không trung thực, cơ hội, không đủ năng lực, và không contributive cho đất nước; do đó,
31
họ là những người sử dụng lao động ít nhất là mong muốn cũng như các ứng viên được ưa thích nhất f hoặc quỹ
(Galaxy TNHH Co, 1999). Trong khi đó, các doanh nghiệp báo cáo rằng sự cạnh tranh khốc liệt,
các nhân viên không đáng tin cậy, và không có khả năng để có được ngắn hạn và dài hạn là họ
vấn đề nghiêm trọng nhất (Benzing et al, 2005)
đang được dịch, vui lòng đợi..
