LỜI MỞ ĐẦUCác mục tiêu quốc gia cho các trường học trong thế kỷ 21 (The Adelaide tuyên bố) được thông qua bởi Hội đồng bộ trưởng về giáo dục, đào tạo việc làm và thanh niên giao (MCEETYA) năm 1999, là một cam kết lịch sử để cải thiện các trường học Úc trong một khuôn khổ của nghiên cứu khoa học quốc gia. Tuyên bố thừa nhận rằng các thành tựu của các mục tiêu quốc gia thoả thuận đòi hỏi một cam kết hợp tác cho mục đích:• Tiếp tục tăng cường các trường học như học tập cộng đồng nơi làm việc giáo viên, học sinh và gia đình của họ trong quan hệ đối tác với doanh nghiệp, ngành công nghiệp và cộng đồng rộng lớn hơn; • Nâng cao tình trạng và chất lượng giảng dạy nghề; • Tiếp tục phát triển chương trình giảng dạy và các hệ thống liên quan của đánh giá, kiểm định chất lượng và khả năng thúc đẩy chất lượng và được trên toàn quốc được công nhận và có giá trị; và, • Tăng công cộng sự tự tin trong trường giáo dục thông qua tiêu chuẩn rõ ràng và chóng giư hướng dẫn cải thiện sinh viên trình độ giáo dục tích và thông qua hiệu quả, hiệu quả và vốn chủ sở hữu của học mà có thể đo và đánh giá. Như là một bước quan trọng hướng tới việc đạt được các mục tiêu quốc gia, MCEETYA thành lập giáo viên chất lượng và lãnh đạo giáo dục Taskforce (TQELT) trong tháng 7 năm 2001, để cung cấp lời khuyên, trong số những thứ khác, trên:• Giáo viên chuẩn bị và phát triển không ngừng nhằm cải thiện chất lượng và tiêu chuẩn giảng dạy và học tập; và, • Tiêu chuẩn chuyên môn cho giáo viên và hiệu trưởng, cả cho các mục nhập cho nghề nghiệp và để đáp ứng các nhu cầu liên tục của học sinh theo thời gian. Tại hội nghị MCEETYA tháng 7 năm 2002, bộ trưởng coi là một báo cáo từ TQELT phác thảo những lợi ích của sự phát triển của một quốc gia phụ kiện tiêu chuẩn giảng dạy chuyên nghiệp. MCEETYA xác nhận một đề nghị rằng một cách tiếp cận phát triển được thông qua liên quan đến một khuôn khổ quốc gia và TQELT được yêu cầu để cung cấp lời khuyên về thành phần cấu trúc của chất lượng giảng dạy qua một nghề nghiệp teacherís. Là kết quả của một quá trình tham khảo ý kiến dài, khuôn khổ quốc gia cho các tiêu chuẩn chuyên nghiệp cho việc giảng dạy được xây dựng và sau đó xem xét tại tháng 7 năm 2003 MCEETYA cuộc họp. Nó nhận được sự chứng thực của tiểu bang, lãnh thổ và liên bang giáo dục Ministersí và bộ trưởng đã đồng ý rằng bước tiếp theo trong việc thực hiện quyết định này là sử dụng khuôn khổ quốc gia để quốc gia align mục nhập hoặc tiêu chuẩn cấp sau đại học. Ý nghĩa của này sự chứng thực bởi bộ trưởng có thể không là overstated và các nhóm như sử dụng lao động và Hiệp hội chuyên nghiệp cam kết hoặc sẽ thực hiện công việc trên tiêu chuẩn cho việc giảng dạy cần phải nhận ra imprimatur khuôn khổ quốc gia đã và đề cập đến nó như là một điểm tham khảo hướng dẫn và chính. 2GIỚI THIỆUThis National Framework for Professional Standards for Teaching is the current response in continuing efforts to define and promote quality teaching. During the 1980s and into the 1990s, teachers and teacher educators in Australia were encouraged to understand and articulate what effective teachers do, influenced by a competency-based agenda (Louden, 2000). As part of responding to these challenges, the National Competency Framework for Beginning Teachers was developed by the National Project on the Quality of Teaching and Learning and published by the Australian Teaching Council in 1996 (National Project on the Quality of Teaching and Learning, 1996). Across the country, professional bodies, registration authorities, employing authorities and academics entered discussions about developing competences for teachersí work. However, critics argued that defining teachers' work through competencies not only deskilled teachers but also reinforced teachers' practices as reproductive of schooling rather than being transformative (e.g. Porter, Rizvi, Knight, & Lingard, 1992). The potential of competencies to fragment, technicise, and decontextualise teachers' work was highlighted (e.g. Hattam & Smyth, 1995; Louden & Wallace, 1993), as was their potential to restrict teachers' professional growth rather than transform and extend it (e.g. Whitty, 1994). Many critics were particularly concerned with a perceived emphasis on ëdoing teachingí rather than ëknowing about teachingí. By the end of the 1990s in Australia, the UK and the USA, there was a shift from the discourses of competencies to standards. As explained by Reynolds (1999), the concept of standards still aims to make the basis for accreditation of practice transparent but it is a broader concept than competencies as it includes a range of factors such as values and attitudes. Further, standards refocus issues of teachersí processes, purposes and efforts rather than outcomes alone.Khuôn khổ quốc gia này hiện tại cho các tiêu chuẩn chuyên nghiệp cho việc giảng dạy cung cấp một kiến trúc trong đó chung, tiêu chuẩn cụ thể chuyên nghiệp chuyên gia và vấn đề-đó có thể được phát triển ở các cấp độ quốc gia, và nhà nước và lãnh thổ. Nó cung cấp một cơ cấu tổ chức mà thiết lập, một mức độ quốc gia, nhất trí các yếu tố nền tảng và kích thước của hiệu quả giảng dạy. Khuôn khổ bổ sung cho các mục tiêu quốc gia cho trường học, cung cấp một chương trình nghị sự cho các hành động chiến lược giảng dạy và học tập chính sách ở cấp quốc gia. Nó cung cấp một ngôn ngữ đồng ý, sử dụng điều khoản thường được hiểu và định nghĩa, mà để thảo luận về thực hành chuyên nghiệp giảng dạy ở cấp quốc gia. Do đó, nó sẽ tạo điều kiện chia sẻ về thực hành chuyên nghiệp giảng dạy trên khu vực pháp lý thông tin hiệu quả hơn và cung cấp một nguồn tài liệu cho chính phủ liên bang, tiểu bang và vùng lãnh thổ để rút ra sau khi cho mục đích chiến lược của riêng của họ. Khuôn khổ cũng nhằm nâng cao hiệu quả của chuyên nghiệp discourse giữa giáo viên và cộng đồng trường học cả bên trong và trên luật tương ứng của họ, cũng như cung cấp một khuôn khổ chung cho chuyên nghiệp đối thoại giữa giáo viên, giáo viên giáo dục, giáo viên tổ chức và Hiệp hội và công chúng. Khuôn khổ quốc gia sẽ cung cấp hướng dẫn, hỗ trợ và công nhận cho liên tục phát triển nghề nghiệp của giáo viên. Nó nhằm mục đích để cải thiện sự liên kết của tiêu chuẩn cho Pre-dịch vụ giáo viên giáo dục sinh viên tốt nghiệp trên khắp Úc và do đó tính di động của trình độ giáo viên.Professional standards for teaching describe the skills, knowledge and values for effective teaching. They capture key elements of teachersí work, reflecting their growing expertise and professional aspirations and achievements. Standards make explicit the intuitive understandings and knowledge that characterise good teaching practice and enable this to be widely shared within the profession. The National Framework for Professional Standards for Teaching provides the basis for agreement on and consistency around what constitutes quality teaching and facilitates the articulation of the knowledge, understandings, skills and values for effective teaching through development of standards at the local level. The nature and content of standards developed and implemented at the local level will vary according to the purpose for which they are being developed, and the context in which they will be utilised.In achieving all these intentions, the National Framework provides a powerful mechanism for raising the status and standing of teachers, and a common reference point for engagement within the profession and the community. 3RATIONALEQuality teachingMột nền giáo dục trường học mạnh mẽ và hiệu quả là không thể thiếu để cá nhân thành công, gắn kết xã hội, tiến bộ và sự thịnh vượng quốc gia. Nó là rõ ràng rằng giáo viên có càng nhiều thành công với một loạt các học viên để chuẩn bị công dân trong tương lai với các kỹ năng tinh vi cần thiết để tham gia vào một xã hội dựa trên kiến thức. Loại sư phạm cần thiết để giúp sinh viên phát triển khả năng nghĩ rằng giới phê bình, tạo ra, giải quyết vấn đề phức tạp và tổng thể các vấn đề phức tạp, đòi hỏi nhiều hơn những gì cần thiết để truyền đạt và phát triển kỹ năng thường xuyên. Do đó giáo viên có được kiến thức trong các khu vực nội dung và rất khéo léo trong một loạt các giảng dạy phương pháp tiếp cận để phục vụ cho nhu cầu học tập đa dạng của mỗi học sinh.Internationally, a growing body of research confirms teacher quality as one of the most important school factors influencing student achievement (e.g. Darling-Hammond, 2000, 2003; Santiago, 2002). Based on reviews of studies of student achievement in the United States, Darling-Hammond, LaFors, & Snyder (2001) concluded that ëteachersí qualifications ñ based on measures of knowledge and expertise, education, and experience ñ account for a larger share of the variance in studentsí achievement than any other single factor, including poverty, race, and parent education (p.10). In Australia, a number of studies have similarly concluded that the quality of teaching and learning is an important factor accounting for variations in school studentsí achievements (e.g. Cuttance, 2001; QSRLS, 2001; Rowe, 2003; Rowe, Turner, & Lane, 2002).Thus, quality teaching is at the centre of schooling systems and school effectiveness, and recognition of the critical relationship between teachers and learners highlights the need to better define and communicate what constitutes good teaching (National Reference Group for Teacher Standards Quality and Professionalism, 2003). Likewise, specific understanding of what constitutes quality teaching is a necessary aspect of any strategic and long-term approach to ensuring the provision of quality teachers, and necessary also in ensuring a shared commitment across teacher employers, the community and all levels of government on how best to develop and support teacher quality.Moreover, it is increasingly agreed that identifying and publicly recognising what it is that effective teachers know, do and value is an important step in enhancing the public profile and standing of the profession. Teachers often feel that their work is
đang được dịch, vui lòng đợi..