2002 Argentina Screenhouse thử nghiệm. Gộp lại con cháu từ màu và hemizygous R1 (Þrst chi-tion sau khi chuyển đổi) thiết bị dây chuyền Bt 19478-8 và 19487-35 đã được đánh giá trong screenhouse thử nghiệm tại Trung tâm nông học Monsanto, Fontezuela, Buenos Aires tỉnh và Instituto Nacional de Tecno-logõ´a Agropecuaria, Estacio´ n Agropec thử nghiệm - uaria (INTA-EEA), Oliveros, Santa Fe tỉnh. Neg-anh bày tỏ R2 nhà máy đã được tiêu huỷ từ tích cực Bt lô, để lại chỉ hemizygous và màu tích cực Bt nhà máy ở những lô, và của cha mẹ ÔA5547Õ phục vụ như là một kiểm tra tiêu cực. Hai iden - tical ngẫu nhiên hoàn toàn khối (RCB) với bốn sao chép cho mỗi mục (đậu tương dòng) đã được thành lập tại mỗi điểm dưới 16 bởi 18-lưới nylon côn trùng màn hình bìa được hỗ trợ bởi sắt ống khung đo11,0 m dài bởi 7.5 m rộng bởi 2.0 m chiều cao. Hạt giống đã được trồng 8 Ð22 tháng 1 năm 2002 bằng tay tại một tỷ lệ 225 hạt trên mỗi mét hàng trong lô đo một hàng bởi 2.0 m với khoảng cách 1.0-m, 80 cm hẻm, và không có biên giới/bộ đệm. Lô đã được weeded bằng tay với một hoe là cần thiết trong giai đoạn thử nghiệm. Tại 37Ð 64 d sau khi trồng (dap), nhà máy ở lô Bt-tích cực đã phải chịu để biểu hiện phân tích bằng cách sử dụng một thứ hai-santo GeneCheck phòng thí nghiệm thử nghiệm kit và tiêu huỷ nếu nhận được một kết quả tiêu cực, chỉ để lại màu hemizygous Bt-tích cực thực vật kiểu gen trong những âm mưu. Một screenhouse tại mỗi điểm bị nhiễm khuẩn với A. gemmatalis (40 Ð 800 người lớn và 20 Ð180 thứ hai đến thứ ba instars mỗi hàng) hai đến ba lần (49 Ð 62 dap) hoặc E. aporema (200 Ð1, 000 người lớn) 2-4 lần (41Ð 84 dap). Côn trùng đã thu được từ labo - ratory thuộc địa tại INTA-EEA trong Oliveros. Dành cho người lớn A. gemmatalis cũng đã thu được trong Oliveros từ ánh sáng bẫy trong đậu tương Þelds. Dành cho người lớn thực phẩm được cung cấp bởi bông thấm bão hòa với một sucrose/mật ong để-lution (Nipagin thêm vào như là một chất ức chế khuôn) trong hộp nhựa khắp nhà. Ấu trùng tỷ lệ A. gemmatalis được đánh giá ở R4 giai đoạn tăng trưởng thực vật (62Ð 65 dap) bởi đánh bại giữa 60 cm mỗi hàng trên một tấm đánh bại dọc và đếm số lượng các ấu trùng. Thiệt hại được đánh giá ở R5 giai đoạn tăng trưởng (67Ð76 dap) bởi ước tính tỷ lệ phần trăm của phương trên 40 lựa chọn ngẫu nhiên để lại từ cả hai phía trên và phần dưới những tán cây trong cốt truyện mỗi. Ấu trùng tỷ lệ E. aporema được đánh giá ở R5 giai đoạn tăng trưởng (64 Ð 84 dap) bằng cách đếm số lượng các ấu trùng sống trên 10 nhà máy lựa chọn ngẫu nhiên trong âm mưu mỗi. Thiệt hại được đánh giá đồng thời cùng một cây bằng cách đếm số trưng bày thiệt hại. Trong các thử nghiệm tất cả, sản xuất vỏ được đánh giá khi chín (112Ð133 dap) bằng cách đếm số trên 10 ngẫu nhiên nhà máy ở mỗi âm mưu, và năng suất đã được đo trong các thử nghiệm Oliveros bởi thu hoạch toàn bộ hàng trong mỗi lần chữa trị và nặng hạt giống. Dữ liệu trên ấu trùng ở cidence, thiệt hại, quả sản xuất và năng suất đã là phụ-jected để ANOVA để xác định signiÞcant nguồn của sự biến đổi giữa các địa điểm, dòng, và nhân rộng tại cácmức độ 0,05 xác suất. SigniÞcant sự khác biệt giữa các phương tiện được xác định bằng cách sử dụng thử nghiệm TukeyÐKramer tại P = 0,05.
đang được dịch, vui lòng đợi..