Khởi nghiệp là một công cụ hữu ích giúp giải phóng các hoạt động sáng  dịch - Khởi nghiệp là một công cụ hữu ích giúp giải phóng các hoạt động sáng  Việt làm thế nào để nói

Khởi nghiệp là một công cụ hữu ích

Khởi nghiệp là một công cụ hữu ích giúp giải phóng các hoạt động sáng tạo từ sự cứng nhắc của hệ thống hạ tầng đã quá phát triển, theo cùng cách chủ nghĩa tư bản đã làm với chế độ phong kiến. Thông qua các nỗ lực khởi nghiệp, doanh nghiệp có thể kích thích sự thay đổi căn bản về phát minh và đổi mới, và đồng thời làm mất ổn định các hình thức và nội dung của một hệ thống kinh tế hiện có, đẩy nó vào một biến đổi triệt để hơn. Hơn nữa, những nỗ lực kinh doanh/khởi nghiệp chỉ có thể hoạt động hiệu quả trong một môi trường tồn tại cơ chế thị trường và hệ thống giá cả giúp điều phối các hoạt động kinh tế theo cách người tham gia thị trường có thể đạt được lợi ích thương mại cao hơn chi phí bỏ ra. Khi điều này xảy ra, các doanh nhân tương lai nên tham gia vào công việc kinh doanh sinh lợi nhuận. Cạnh tranh cũng sẽ đẩy các doanh nghiệp thua lỗ (thiếu hiệu quả, thiếu năng lực) ra khỏi thị trường. Việc tiếp quản các nguồn lực và lợi nhuận trong trò chơi thị trường thường cho thấy áp lực khởi nghiệp gây ra bởi những phần thưởng không cân xứng và cả sự trừng phạt bất cân xứng trong hệ thống thị trường.

Bước sang kỷ nguyên mới, nhiều học giả cũng chuyển trọng tâm sang mối liên hệ tự nhiên giữa sáng tạo/đổi mới và khởi nghiệp (ví dụ, Brown, Davidsson & Wiklund,2001; Kaufmann, 2004; Gilson & Shalley, 2004; Miron, Erez & Naveh, 2004; McAdam & Keogh, 2004). Brown, Davidsson và Wiklund (2001, [4]) nhấn mạnh sự cần thiết phải có các chiến lược có thể kiểm định bằng phương pháp thực nghiệm để tiếp tục phát triển giả thiết rằng “quản lý khởi nghiệp, được định nghĩa là một tập hợp các biện pháp quản lý dựa trên cơ hội, có thể giúp các doanh nghiệp giữ nguyên vai trò thiết yếu và đóng góp cho quá trình tạo ra giá trị ở cấp độ doanh nghiệp và xã hội.”

Những thay đổi do khởi nghiệp đem lại không chỉ dừng lạiở những ảnh hưởng trong khởi nghiệp và chu kỳ mạo hiểm, mà còn lan rộng ra cộng đồng các doanh nghiệp thành lập tốt, bao gồm cả công ty đa quốc gia. Ahuja và Lampert (2001, [5]) giải quyết các vấn đề quan trọng và thiết thực về việc làm thế nào các công ty đã thành lập có thể tạo ra đột phá về đổi mới, bằng cách dựa vào khái niệm ‘doanh nghiệp khởi nghiệp’. Đó là các công ty đã thành công thiết lập lại tinh thần khởi nghiệp, qua đó nâng cao năng lực sáng tạo.

Sự khác biệt trong lịch sử văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc xác định độ lệch của sự tiến bộ và thịnh vượng giữa phương Đông và phương Tây. Nếu Birzner (1999, [6]) nói về tinh thần khởi nghiệp gắn với giá trị hệ thống của cả xã hội và chính phủ Mỹ, thì Worris và Leung (2010, [7]) lại chỉ ra những khác biệt về sự sáng tạo giữa phương Đông và phương Tây vẫn còn tồn tại và những khác biệt này có thể được xem xét dựa trên sự khác biệt về văn hóa và áp lực xã hội nhiều hơn là dựa vào tính mới lạ/độc đáo hoặc tính hữu dụng/phù hợp.

Chuẩn mực xã hội và bối cảnh thực tế cũng giúp dự đoán sự khác biệt về văn hóa. Nhìn lại thời kỳ đô hộ từ cuối thế kỷ 19 ở các nước Đông Á (như Trung Quốc, Việt Nam và Hàn Quốc), xếp hạng thấp của các tầng lớp kinh doanh trong xã hội đã cho thấy sự khác biệt, cản trở quyết tâm khởi nghiệp và đổi mới, thậm chí là cả sự thích ứng của các đổi mới hiện có. Quá trình chuyển đổi sôi động sau đó diễn ra kinh tế Đông Á, như Nhật Bản, có lợi từ sự thay đổi ý thức hệ của giới elite khi nhận ra giá trị của khởi nghiệp và cố gắng thể chế hóa xã hội dân sự – nơi đổi mới và hoạt động sáng tạo được ưa chuộng (Isaksen và Ekvall, 2010, [8]).

Ở cấp độ xã hội, Bohm (1968, [9]) đặt ra câu hỏi về điều gì ngăn cản phần lớn người dân ở một đất nước đi đến sáng tạo: “Các khả năng sáng tạo của trí óc nói chung là không hoạt động” là kết quả của sự nhầm lẫn phổ biến giữa ‘các sáng tạo’ và ’máy móc’ – vốn rất dai dẳng khiến người ta khó có thể nhận thức được sự thiếu sáng tạo của một người. Thức tỉnh quyền lực kinh doanh đòi hỏi hiệu suất sáng tạo của các doanh nhân.

Đổi mới tại các công ty khởi nghiệp tư nhân trong lịch sử Trung Quốc và Việt Nam chỉ xảy ra trong môi trường thích hợp, nơi sở hữu tài sản tư nhân được công nhận đầy đủ và thị trường tồn tại cho phép cạnh tranh thực sự (McMillan và Woodruff, 2002, [10]) Quay trở lại những ngày đầu của doanh nghiệp tư nhân trong thời kỳ đổi mới kinh tế ở Việt Nam, ngay trong giai đoạn khủng hoảng 1988-1992 – khu vực tư nhân, sau đó đến các doanh nghiệp kinh doanh quy mô nhỏ, đã tăng thêm 6,4 triệu việc làm cho nền kinh tế (tăng từ 3,8 triệu lên 10,2 triệu), trong khi khu vực nhà nước giảm 1,1 triệu việc làm (từ 4,1 triệu xuống còn 3,0 triệu), và khu vực hợp tác quản lý nhà nước giảm 2,1 triệu việc làm (từ 20,7 triệu còn 18,6 triệu). Trong giai đoạn tiếp theo 1992-1995, 2,4 triệu việc làm tiếp tục được tạo ra bởi các DNNVV Việt Nam.

Liên quan đến tính bấp bênh của công việc, Probst et al. (2007, [11]) nhìn vào năng suất, các yếu tố cản trở năng suất và sự sáng tạo để kết luận rằng, tính bấp bênh trong công việc có thể cản trở khả năng sáng tạo của nhân viên. Tuy nhiên,sự bất ổn trong công việc có thể có một số tác động lợi ích vừa phải về năng suất, cân bằng giữa tác động tiêu cực về sự sáng tạo và có phần tích cực về năng suất nên có sự kết nối trong vận hành kinh doanh, đặc biệt là trong giai đoạn tăng trưởng kinh doanh và thời kỳ kinh tế hỗn loạn.

Quá trình chuyển đổi này có xu hướng dẫn đến xã hội tri thức, kế thừa từ ý tưởng của Murphy (2005, [12]), cho rằng nghệ thuật và khoa học là cơ sở cho khái niệm “Chủ nghĩa tư bản Tri thức,” nơi vai trò của sự sáng tạo và trí thông minh là điều cần thiết để phương thức sản xuất được xây dựng dựa trên vốn hiểu biết. Các doanh nhân phải đóng một vai trò quan trọng, theo sau là những đóng góp đáng kể về đổi mới của họ, như là tinh thần khởi nghiệp. Stevenson và Jarillo (1990, [13]) nhấn mạnh khía cạnh quản lý của khởi nghiệp vượt ra ngoài ý nghĩa của mạo hiểm kinh doanh. Một cách tự nhiên, nó cho thấy sự tăng trưởng thông qua sáng tạo, cả về phát minh công nghệ và quản lý. Việc theo đuổi một cơ hội mới cho sự tăng trưởng được thực hiện thông qua hình thức công ty hay không không quan trọng, vấn đề là ở cốt lõi của doanh nghiệp.
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Việt) 1: [Sao chép]
Sao chép!
Lớn nghiệp là một công cụ hữu học giúp giải phóng các hoạt động dự chức từ sự cứng nhắc của hay thống hạ tầng đã quá phát triển, theo cùng cách hào nghĩa tư bản đã làm với chế độ phong kiến. Thông qua các nỗ lực lớn nghiệp, doanh nghiệp có Bulgaria kích thích sự thay đổi căn bản về phát minh và đổi mới, các và đồng thời làm mất ổn định các chuyển ngữ và nội dung của một hay thống kinh tế hiện có, đẩy nó vào một biến đổi triệt tiếng hơn. Hơn nữa, những nỗ lực kinh doanh/khuyến nghiệp chỉ có mùa hoạt động hiệu tên trong một môi trường tồn tại cơ chế thị trường và hay thống giá đoàn giúp ban phối các hoạt động kinh tế theo cách người tham gia thị trường có Bulgaria đạt được lợi học thương mại cao hơn chi phí bỏ ra. Khi ban này xảy ra, các doanh nhân tương lai nên tham gia vào công việc kinh doanh sinh lợi nhuận. Cạnh tranh cũng sẽ đẩy các doanh nghiệp thừa lỗ (thiếu hiệu tên, thiếu năng lực) ra khỏi thị trường. Việc truyện quản các nguồn lực và lợi nhuận trong trò chơi thị trường thường cho thấy áp lực lớn nghiệp gây ra bởi những phần thưởng không cần xứng và đoàn sự trừng phạt bất cần xứng trong hay thống thị trường.Bước sang kỷ nguyên mới, nhiều học giả cũng chuyển trọng tâm sang mối liên hay tự nhiên giữa dự chức/đổi mới và lớn nghiệp (ví dụ, Brown, Davidsson & Wiklund, năm 2001; Kaufmann, năm 2004; Gilson & Shalley, năm 2004; Miron, Erez & Naveh, năm 2004; McAdam & Keogh, năm 2004). Nâu, Davidsson và Wiklund (2001, [4]) nhấn mạnh sự cần thiết phải có các chiến lược có Bulgaria kiểm định bằng phương pháp thực nghiệm tiếng truyện tục phát triển giả thiết rằng "quản lý lớn nghiệp, được định nghĩa là một tổ hợp các biện pháp quản lý dựa trên cơ hội, có Bulgaria giúp các doanh nghiệp giữ nguyên vai trò thiết yếu và Third góp cho quá trình chức ra giá trị ở cấp độ doanh nghiệp và xã hội."Những thay đổi làm lớn nghiệp đem lại không chỉ dừng lạiở những ảnh hưởng trong lớn nghiệp và chu kỳ mạo hiểm, mà còn lan rộng ra về đồng các doanh nghiệp thành lập tốt, bao gồm đoàn công ty đa quốc gia. Ahuja và Lampert (2001, [5]) giải quyết các vấn đề quan trọng và thiết thực về việc làm thế nào các công ty đã thành lập có Bulgaria chức ra đột phá về đổi mới, bằng cách dựa vào khái niệm 'doanh nghiệp lớn nghiệp'. Đó là các công ty đã thành công thiết lập lại tinh thần lớn nghiệp, qua đó nâng cao năng lực dự chức.Sự ông biệt trong lịch sử văn hóa Third vai trò quan trọng trong việc xác định độ lệch của sự tiến bộ và thịnh vượng giữa phương Đông và phương Tây. Nếu Birzner (1999, [6]) đảm về tinh thần lớn nghiệp gắn với giá trị hay thống của đoàn xã hội và chính phủ Mỹ, thì Worris và Leung (năm 2010, [7]) lại chỉ ra những ông biệt về sự dự chức giữa phương Đông và phương Tây vẫn còn tồn tại và những ông biệt này có Bulgaria được xem xét dựa trên sự ông biệt về văn hóa và áp lực xã hội nhiều hơn là dựa vào tính mới lạ/độc đáo hoặc tính hữu Scholars/phù hợp.Chuẩn mực xã hội và bối cảnh thực tế cũng giúp dự đoán sự ông biệt về văn hóa. Nhìn lại thời kỳ đô hộ từ cuối thế kỷ 19 ở các nước Đông Á (như Trung Quốc, Việt Nam và Hàn Quốc), xếp Thiên thấp của các tầng lớp kinh doanh trong xã hội đã cho thấy sự ông biệt, cản trở quyết tâm lớn nghiệp và đổi mới, thậm chí là đoàn sự thích ứng của các đổi mới hiện có. Quá trình chuyển đổi sôi động sau đó lại ra kinh tế Đông Á, như Nhật Bản, có lợi từ sự thay đổi ý ngữ hay của giới ưu tú khi nhận ra giá trị của khuyến nghiệp và cố gắng Bulgaria chế hóa xã hội dân sự-nơi đổi mới và hoạt động dự chức được ưa chuộng (Isaksen và Ekvall2010, [8]).Ở cấp độ xã hội, Bohm (1968, [9]) đặt ra câu hỏi về ban quyết ngăn cản phần lớn người dân ở một đất nước đi đến dự chức: "Các gièm năng dự chức của trí óc đảm chung là không hoạt động" là kết tên của sự nhầm lẫn phổ biến giữa 'các dự chức' và 'máy móc'-vốn rất dai dẳng khiến người ta khó có Bulgaria nhận ngữ được sự thiếu dự chức của một người. Ngữ tỉnh quyền lực kinh doanh đòi hỏi hiệu suất dự chức của các doanh nhân.Đổi mới tại các công ty lớn nghiệp tư nhân trong lịch sử Trung Quốc và Việt Nam chỉ xảy ra trong môi trường thích hợp, nơi sở hữu tài ở tư nhân được công nhận đầy đủ và thị trường tồn tại cho phép cạnh tranh thực sự (McMillan và Woodruff, năm 2002, [10]) Quay trở lại những ngày đầu của doanh nghiệp tư nhân trong thời kỳ đổi mới kinh tế ở Việt Nam, ngay trong giai đoạn khủng hoảng 1.988-1.992-khu vực tư nhân, sau đó đến các doanh nghiệp kinh doanh quy mô nhỏ, đã tăng thêm 6,4 triệu việc làm cho nền kinh tế (tăng từ 3,8 triệu lên 10,2 triệu), trong khi khu vực nhà nước giảm 1,1 triệu việc làm (từ 4,1 triệu xuống còn 3,0 triệu), và khu vực hợp NXB quản lý nhà nước giảm 2,1 triệu việc làm (từ 20,7 triệu còn 18,6 triệu). Trong giai đoạn truyện theo 1992-1995, 2,4 triệu việc làm truyện tục được chức ra bởi các DNNVV Việt Nam.Liên quan đến tính bấp bênh của công việc, Probst et al. (2007, [11]) nhìn vào năng suất, các yếu tố cản trở năng suất và sự dự chức tiếng kết biệt rằng, tính bấp bênh trong công việc có Bulgaria cản trở gièm năng dự chức của nhân viên. Tuy nhiên, sự bất ổn trong công việc có Bulgaria có một số NXB động lợi học vừa phải về năng suất, cần bằng giữa NXB động tiêu cực về sự dự chức và có phần tích cực về năng suất nên có sự kết nối trong vận hành kinh doanh, đặc biệt là trong giai đoạn tăng trưởng kinh doanh và thời kỳ kinh tế hỗn loạn.Quá trình chuyển đổi này có xu hướng dẫn đến xã hội tri ngữ, kế thừa từ ý tưởng của Murphy (2005, [12]), cho rằng nghệ thuật và khoa học là cơ sở cho khái niệm "Hào nghĩa tư bản Tri ngữ," nơi vai trò của sự dự chức và trí thông minh là ban cần thiết tiếng phương ngữ ở cạnh được xây dựng dựa trên vốn hiểu biết. Các doanh nhân phải Third một vai trò quan trọng, theo sau là những third góp đáng kể về đổi mới của họ, như là tinh thần lớn nghiệp. Stevenson và Jarillo (1990, [13]) nhấn mạnh khía cạnh quản lý của khuyến nghiệp vượt ra ngoài ý nghĩa của mạo hiểm kinh doanh. Một cách tự nhiên, nó cho thấy sự tăng trưởng thông qua dự chức, đoàn về phát minh công nghệ và quản lý. Việc theo đuổi một cơ hội mới cho sự tăng trưởng được thực hiện thông qua chuyển ngữ công ty hay không không quan trọng, vấn đề là ở cốt lõi của doanh nghiệp.
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Việt) 2:[Sao chép]
Sao chép!
Khởi nghiệp is a tool hữu ích giúp giải phóng of activities sáng tạo từ sự cứng nhắc the system hạ tầng was too phát triển, theo cùng cách chủ nghĩa tư bản làm was with mode phong kiến. Thông through Không có lực khởi nghiệp, doanh nghiệp may be kích thích sự changes căn bản về phát Minh and đổi mới, and đồng thời làm mất ổn định hình thức and the contents of the one hệ thống kinh tế hiện có, đẩy it into a biến đổi triệt for more than. Additionally, but it lực kinh doanh / khởi nghiệp only be hoạt động hiệu quả in one môi trường tồn tại cơ chế thị trường and the system giá cả giúp điều phối hoạt động kinh of tế theo cách người tham gia thị trường possible set lợi ích thương mại cao than chi phí bỏ ra. Khí this xảy ra, the doanh nhân tương lai be tham gia vào công việc kinh doanh sinh lợi nhuận. Cạnh tranh also the would đẩy doanh nghiệp thua lỗ (thiếu hiệu quả, thiếu năng lực) from thị trường. Việc tiếp quản the nguồn lực and lợi nhuận in trò chơi thị trường thường cho be found áp lực khởi nghiệp give bởi those phần thưởng do not cân Xứng and cả sự Trừng phạt bất cân Xứng in hệ thống thị trường. Bước sang kỷ nguyên mới, multiple học giả also chuyển trọng tâm sang mối liên hệ tự nhiên Centered sáng tạo / đổi mới and khởi nghiệp (examples, Brown, Davidsson & Wiklund, 2001; Kaufmann, 2004; Gilson & Shalley, 2004; Miron, Erez & Naveh, 2004; McAdam & Keogh, 2004). Brown, Davidsson and Wiklund (2001, [4]) nhấn mạnh sự cần thiết must be the chiến lược be kiểm định bằng phương pháp thực nghiệm to continue phát triển giả thiết that "quản lý khởi nghiệp, defined as a tập hợp các bien pháp quản lý based on cơ hội, you can help the doanh nghiệp kept nguyên vai trò thiết yếu and đóng góp cho quá trình tạo ra giá trị out cấp độ doanh nghiệp and xã hội. " Những changes làm khởi nghiệp Move lại not only to stop lạiở those affect in khởi nghiệp and chu kỳ mạo hiểm, which còn lan rộng ra cộng đồng doanh nghiệp of thành lập tốt, bao including công ty đa quốc gia. Ahuja and Lampert (2001, [5]) giải quyết các vấn đề quan trọng thiết thực về and việc làm thế nào the company was thành lập possible tạo ra đột phá về đổi mới, bằng cách based on khái niệm "doanh nghiệp khởi nghiệp '. Which is the company was thành công thiết lập lại tinh thần khởi nghiệp, qua that nâng cao năng lực sáng tạo. Sự khác biệt in lịch sử văn hóa đóng vai trò quan trọng việc xác định in độ lệch of sự tiến bộ and thịnh Vượng Centered phương Đông phương Tây and. If Birzner (1999, [6]) nói về tinh thần khởi nghiệp mounting for the value of the system cả xã hội and chính phủ Mỹ, thì Worris and Leung (2010, [7]) lại chỉ ra those khác biệt về sự sáng tạo Centered phương Đông phương Tây and still exists and those khác biệt this could be xem xét based on sự khác biệt về văn hóa and áp lực xã hội more is based on tính mới lạ / độc đáo or tính hữu dụng / phù hợp. Chuẩn mực xã hội and bối cảnh thực tế also giúp dự đoán sự khác biệt về văn hóa. Nhìn lại thời kỳ đô hộ từ cuối thế kỷ 19 out of nước Đông Á (Trung Quốc like, Việt Nam và Hàn Quốc), xếp hạng thấp of the tầng lớp kinh doanh in xã hội have not find cho sự khác biệt, cản trở quyết tâm khởi nghiệp đổi mới and, even is cả sự thích ứng of the đổi mới hiện have. Quá trình chuyển đổi Sôi động then diễn ra kinh tế Đông Á, such as Nhật Bản, has lợi từ sự changes ý thức hệ giới on the elite recognize value of khởi nghiệp and attempt thể chế hóa xã hội dân sự - nơi đổi mới hoạt động sáng and make ưa Chương (Isaksen and Ekvall, 2010, [8]). Ở cấp độ xã hội, Bohm (1968, [9]) đặt ra câu hỏi về điều gì ngăn cản most people dân out one đất nước đi to sáng tạo: "Các capabilities sáng tạo trí óc of nói chung is not active" is kết quả of sự nhầm lan phổ biến middle 'the sáng tạo' and 'máy móc' - Cap much dai dang make người ta khó possible nhận thức been sự thiếu sáng tạo of one người. Thức tỉnh quyền lực kinh doanh đòi hỏi hiệu suất sáng tạo of the doanh nhân. Đổi mới tại công ty of khởi nghiệp tư nhân in lịch sử Trung Quốc Việt Nam and chỉ xảy ra in môi trường thích hợp, nơi sở hữu tài sản tư nhân been công nhận đầy đủ and thị trường tồn tại cho phép cạnh tranh thực sự (McMillan and Woodruff, năm 2002, [10]) Quay trở lại ngày đầu those of doanh nghiệp tư nhân in thời kỳ đổi mới kinh tế Việt Nam out, ngay in giai đoạn khủng hoảng 1988-1992 - khu vực tư nhân, then to the doanh nghiệp kinh doanh quy mô nhỏ, already increase thêm 6,4 triệu việc làm cho nền kinh tế (Augmented từ 3,8 triệu lên 10, triệu 2), during khu vực nhà nước 1,1 triệu shrink việc làm (từ 4,1 triệu xuống còn 3,0 triệu), and khu vực hợp tác quản lý nhà nước shrink 2,1 triệu việc làm (từ 20 , 7 triệu còn 18,6 triệu). Trong giai đoạn tiếp theo 1992-1995, 2,4 triệu việc làm tiếp tục tạo ra bởi been the DNNVV Việt Nam. Liên related tính BAP bênh of công việc, Probst et al. (2007, [11]) nhìn vào năng suất, the yếu tố cản trở năng suất and sự sáng tạo to kết luận that, tính BAP bênh in công việc may be cản trở capabilities sáng tạo of nhân viên. Tuy nhiên, sự bất ổn in công việc may have some of tác động lợi ích vừa non về năng suất, cân bằng Centered tác động tiêu cực về sự sáng tạo and has phần tích cực về năng suất be no connection in vận hành kinh doanh, đặc biệt is in the period of increase trưởng kinh doanh and thời kỳ kinh tế hỗn loạn. Quá trình chuyển đổi this has xu hướng dẫn to xã hội tri thức, kế thừa từ ý tưởng of Murphy (2005, [12] ), cho that nghệ thuật and khoa học cơ sở is cho khái niệm "Chủ nghĩa tư bản Tri thức," nơi vai trò of sự sáng tạo trí thông minh and is điều cần thiết for phương thức sản xuất was built based on Cap hiểu biết. Các doanh nhân right one đóng vai trò quan trọng, theo sau are those đóng góp đáng Kể về đổi mới their, as tinh thần khởi nghiệp. Stevenson and Jarillo (1990, [13]) nhấn mạnh khia cạnh quản lý of khởi nghiệp beyond ra ngoài ý nghĩa của mạo hiểm kinh doanh. Một cách tự nhiên, cho it be found sự increase trưởng thông qua sáng tạo, cả về công nghệ phát Minh and manage. Việc theo đuổi cơ hội an mới cho sự increase trưởng be implemented thông qua hình thức công ty or not no quan trọng, vấn đề cốt lõi is out of doanh nghiệp.















đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2025 I Love Translation. All reserved.

E-mail: