Tầm quan trọng của tính hữu dụng nhận thức đã được công nhận rộng rãi trong các lĩnh vực ngân hàng điện tử (Guriting và Ndubisi, 2006; Jaruwachirathanakul và Fink, 2005; Eriksson et al, 2005;. Laforet và Li, 2005; Polatoglu và Ekin, 2001; Liao và Cheung , 2002). Theo họ tính hữu dụng là xác suất chủ quan rằng việc sử dụng công nghệ này sẽ cải thiện cách thức một người sử dụng có thể hoàn thành một nhiệm vụ nhất định. Dựa trên lý thuyết về tâm lý học xã hội, chẳng hạn như lý thuyết về hành động lý (TRA) (Ajzen và Fishbein, 1980; Fishbein và Ajzen, 1975) và lý thuyết hành vi hoạch định (TPB) (Ajzen, 1985), mô hình chấp nhận công nghệ ( TAM) đã được xác nhận như là một khuôn khổ mạnh mẽ và tiêu dùng tiết kiệm (Davis, 1989; Davis et al, 1989).. Theo TAM, tính hữu nhận thức là mức độ mà một người tin rằng việc sử dụng một hệ thống cụ thể sẽ nâng cao hiệu suất công việc của mình. Theo Davis et al. (1992), tính hữu nhận thức đề cập đến nhận thức của người tiêu dùng về kết quả của kinh nghiệm. Davis (1993) đã xác định nhận thức hữu dụng như nhận thức của cá nhân bằng cách sử dụng các công nghệ mới sẽ tăng cường hoặc cải thiện hiệu năng / của ông bà. Tương tự như vậy, Mathwick et al., (2001) định nghĩa hữu coi là mức độ mà một người cho là một hệ thống đặc biệt để tăng hiệu suất công việc của mình. Pikkarainen et al. (2004) áp dụng TAM ở Phần Lan và họ đã tìm thấy cảm nhận tính hữu dụng như một yếu tố quyết định hành vi thực tế nhằm khuyến khích người sử dụng của các ngân hàng thế kỷ twentyfirst sử dụng công nghệ tự phục vụ sáng tạo hơn và userfriendly mà cung cấp cho họ quyền tự chủ lớn hơn trong việc thực hiện các giao dịch ngân hàng, trong việc có được thông tin về tư vấn tài chính, và việc mua các sản phẩm tài chính khác. Tuy nhiên, Gerrard và Cunningham (2003) lưu ý rằng tính hữu nhận thức phụ thuộc vào các dịch vụ ngân hàng cung cấp như kiểm tra số dư ngân hàng, áp dụng cho một khoản vay, thanh toán hóa đơn tiện ích, chuyển tiền ra nước ngoài, và có được thông tin về các quỹ tương hỗ. Có bằng chứng chứng minh sâu rộng ý nghĩa của tác dụng của tính hữu nhận thức về thích ứng với ý định (Chen và Barnes, 2007; Guriting và Ndubisi, 2006; Jaruwachirathanakul và Fink, 2005;. Eriksson et al, 2005;. Hu et al, 1999; Venkatesh, 2000; Venkatesh và Davis, 1996; Venkatesh và Morris, 1996). Tân và Teo (2000) cho rằng sự hữu ích cảm nhận là một yếu tố quan trọng trong việc xác định sự thích nghi của sự đổi mới. Như một hệ quả, càng hữu dụng nhận thức của việc sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử, càng có nhiều khả năng là ngân hàng điện tử sẽ được thông qua (Polatoglu và Ekin, 2001, Jaruwachirathanakul và Fink, 2005). Do đó, các nhà nghiên cứu thừa nhận: câu hỏi nghiên cứu 1: Có nhận thức hữu dụng đã tác động tích cực về thái độ của khách hàng? Câu hỏi nghiên cứu 2: Có nhận thức hữu dụng có tác động tích cực về thích ứng với khách hàng? Giả thuyết 1: Nhận thức về tính hữu dụng có tác động tích cực về thái độ của khách hàng. Giả thuyết 2: Nhận thức về tính hữu dụng có tác động tích cực về thích ứng với khách hàng.
đang được dịch, vui lòng đợi..
