duy trì đầu tư của công ty trong đổi mới để nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua các công ty nghiêm ngặt
quản trị.
Thay vì ngành công nghiệp biến cấu trúc như thị trường tập trung, quy mô nền kinh tế mà
xác định hành vi của công ty và hiệu suất như mặc nhiên công nhận bởi các nghiên cứu tổ chức công nghiệp,
kinh tế tổ chức nhìn thấy động cơ của quản lý (nghĩa cơ hội) và khả năng ( bounded
hợp lý), thông tin không đối xứng, hợp đồng thi, đánh giá hoạt động và
các mối quan hệ giao dịch giữa hai bên (các doanh nghiệp trong kinh tế chi phí giao dịch, và
chủ sở hữu và đại lý trong lý thuyết cơ quan) như các trình điều khiển chính của chiến lược và hiệu suất công ty.
Một số nhà nghiên cứu đã chấp nhận kinh tế tổ chức trên truyền thống
phân tích kinh tế vi mô trên cơ sở phương pháp luận. Phân tích kinh tế vi mô truyền thống của
công ty đã trở nên ngày càng toán học định hướng (Hoskisson, Hitt, Wan & Yiu, 1999;
Rumelt et al, 1994) và di chuyển để làm nghiên cứu ít hơn toán học và phù hợp hơn với thực tế
kinh doanh đã dẫn các nhà nghiên cứu quản lý chiến lược cho lĩnh kinh tế tổ chức với
sự tập trung vào các chi tiết về thể chế và hành vi của con người như được thể hiện bởi các nhà quản lý. Một tương tự như
phong trào đi từ một cách tiếp cận toán học dẫn các nhà nghiên cứu đầu tiên như Jensen và
Meckling (1976) để sửa đổi các toán học nhiều hơn, quy phạm lý thuyết chính-agent ủng hộ
cách tiếp cận nhân văn hơn như được minh họa trong lý thuyết cơ quan thực chứng hiện đại (Xem
Cannella & Monroe năm 1997 cho một lời giải thích rộng hơn).
Phong trào đi từ các tiêu chuẩn khoa học nghiêm được áp đặt bởi một toán học dựa
phương pháp nghiên cứu đã không được tuy nhiên không chỉ trích. Trung tâm chỉ trích trên các ý nghĩa
thách thức đối với cả lý thuyết chi phí giao dịch và lý thuyết cơ quan để phát triển thực nghiệm có giá trị
phương pháp nghiên cứu để đo 'unobservables' (chẳng hạn như các biến quan trọng của cơ hội và
mức độ lợi ích khác nhau) vốn có trong bất kỳ cách tiếp cận nhân văn vững phân tích (Godfry
và Hill, 1995). Hoskisson và Hitt (1990) lưu ý rằng nghiên cứu về mối quan hệ giữa các cơ quan
động cơ và đa dạng hóa đã được giới hạn bởi vì quản lý không có khả năng thừa nhận rằng cơ quan
động cơ có mặt trong quá trình ra quyết định và các chỉ số rõ ràng về tác động của quản trị
cơ chế về các hành vi của các đại lý là rất khó cô lập. Kết quả là các nhà nghiên cứu phải dựa trên
lý thuyết suy đoán nhiều hơn và nghiên cứu gián tiếp vào các cơ chế quản trị như quyền sở hữu
cấu trúc và hành bồi thường.
Các nhà nghiên cứu khác cũng đã chuyển sang lĩnh vực tâm lý học và khoa học hành vi để biết thêm
các phương pháp thích hợp và hiểu biết về vai trò của con người điều kiện trong các chiến lược
quản lý và ra quyết định quy trình. Witt (1991) đã kiểm tra mối quan hệ giữa
kinh tế, xã hội-sinh học và tâm lý học hành vi trên lý thuyết thực nghiệm của các sở thích
đó ông tranh còn thiếu trong mô hình kinh tế truyền thống của hành vi. Witt đã kết luận
rằng một lý thuyết toàn diện về việc ra quyết định và các ưu đãi không thể bỏ qua những ảnh hưởng của
cơ chế học tập bẩm sinh trong con bậc cao và một cái nhìn đúng vào sự xuất hiện của
các sở thích trong quá trình ra quyết định sẽ phải thừa nhận và kết hợp
tâm lý học hành vi. Sau đó công việc của Scott A (2002) nhìn vào việc ra quyết định trong số
những người nhận dịch vụ chăm sóc sức khỏe đạt kết luận tương tự. Scott quan sát thấy rằng, trong số các yếu tố khác, những
phức tạp của sự lựa chọn và kinh nghiệm trong quá khứ của một cá nhân là yếu tố chi phối có ảnh hưởng đến
lựa chọn của cá nhân lựa chọn chăm sóc sức khỏe.
Vấn đề phương pháp luận như những trích dẫn trên đây đặt ra thách thức đối với chiến lược
nghiên cứu quản lý và tạo ra cuộc tranh luận giữa các nhà nghiên cứu giữ giả định khác nhau
về bản chất của những động cơ của con người (Cannella và Monroe, 1997). Tuy nhiên tổ chức
kinh tế tiếp tục dẫn đầu phí cho một sự hiểu biết toàn diện về nội
hoạt động, tổ chức và hậu quả bên ngoài của các hành động của họ.
Trong khi lý thuyết chi phí giao dịch và lý thuyết cơ quan cung cấp khuôn khổ quan trọng cho một
sự hiểu biết về cách các doanh nghiệp hoạt động, một số tranh luận (Barney, 1991; Wernerfelt, 1984) mà họ không thể
để phản ánh đầy đủ các tính chất đặc trưng của các doanh nghiệp và làm thế nào điều này có thể ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của họ
lợi thế. Các nhà nghiên cứu đã quan sát thấy sự không đồng nhất của các công ty trong ngành công nghiệp khác nhau nhóm
7
và thậm chí cả trong các nhóm ngành công nghiệp tương tự có tầm quan trọng và bắt nguồn từ sự khác biệt về
nguồn lực hữu hình và vô hình trong các doanh nghiệp.
đang được dịch, vui lòng đợi..