cần thiết. Thứ hai, nó là chịu trách nhiệm phá thông điệp dài thành một số nhỏ hơn
thông điệp để làm cho họ dễ dàng hơn để truyền và sau đó tái kết hợp các thông điệp nhỏ hơn
lại trở thành thông điệp lớn hơn ban đầu ở cuối nhận. Lớp giao thông cũng có thể
phát hiện các tin nhắn bị mất và yêu cầu họ phải bực bội. Chương 5 thảo luận về việc vận chuyển
lớp chi tiết.
Lớp 5: Lớp Application Lớp ứng dụng là phần mềm ứng dụng được sử dụng bởi
những người dùng mạng và bao gồm phần lớn những gì mô hình OSI chứa trong ứng dụng,
lớp thuyết trình, và phiên. Nó là truy cập của người dùng vào mạng. Bằng cách sử dụng các
phần mềm ứng dụng, người dùng định nghĩa những thông điệp được gửi qua mạng. Bởi vì
nó là lớp mà hầu hết mọi người hiểu nhất và bởi vì bắt đầu từ đầu đôi khi
giúp mọi người hiểu rõ hơn, các chương tiếp theo, Chương 2, bắt đầu với các ứng dụng
lớp. Nó bàn về kiến trúc của các ứng dụng mạng và một số dạng mạng
phần mềm ứng dụng và các loại thông điệp mà họ tạo ra.
Các nhóm Layers Các lớp trong Internet thường được kết hợp chặt chẽ như vậy mà
quyết định trong một lớp áp đặt các yêu cầu nhất định trên các lớp khác. Các lớp liên kết dữ liệu
và lớp vật lý được gắn chặt chẽ với nhau bởi vì các lớp liên kết dữ liệu điều khiển
lớp vật lý về khi lớp vật lý có thể truyền tải. Bởi vì hai các
lớp này được gắn rất chặt chẽ với nhau, quyết định về các lớp liên kết dữ liệu thường xuyên lái xe các
quyết định về các lớp vật lý. Vì lý do này, một số người nhóm vật lý và
lớp liên kết dữ liệu với nhau và gọi họ là lớp phần cứng. Tương tự như vậy, việc vận chuyển
các lớp và các mạng được kết chặt chẽ với nhau rằng đôi khi những lớp này được gọi là các
lớp liên mạng. Xem Hình 1.3. Khi bạn thiết kế một mạng, bạn thường nghĩ về
việc thiết kế mạng về ba nhóm lớp: lớp phần cứng (vật chất
và. Liên kết dữ liệu), các lớp liên mạng (mạng và giao thông vận tải), và các lớp ứng dụng
1.3.3 nhắn Transmission Sử dụng Layers
Mỗi máy tính trong mạng có phần mềm hoạt động ở mỗi lớp và
thực hiện các chức năng cần thiết bởi những lớp (lớp vật lý là phần cứng, không phải
phần mềm). Mỗi lớp trong mạng sử dụng một ngôn ngữ chính thức, hoặc giao thức, mà chỉ đơn giản là
một tập hợp các quy tắc để xác định những gì các lớp sẽ làm và cung cấp một định nghĩa rõ ràng của
thông điệp mà những phần mềm ở lớp cần phải hiểu. Ví dụ, các giao thức được sử dụng
cho các ứng dụng Web là HTTP (Hypertext Transfer Protocol, được mô tả trong nhiều
chi tiết trong Chương 2). Nói chung, tất cả các tin nhắn gửi đi trong một mạng đi qua tất cả các lớp.
Tất cả các lớp ngoại trừ các lớp vật lý thêm một đơn vị dữ liệu giao thức (PDU) vào tin nhắn
khi nó đi qua chúng. Các PDU chứa thông tin đó là cần thiết để truyền tải
thông điệp qua mạng. Một số chuyên gia sử dụng các gói dữ liệu từ để có nghĩa là một PDU.
Hình 1.4 cho thấy cách một thông báo yêu cầu một trang Web sẽ được gửi trên Internet.
Application Layer tiên, người dùng tạo ra một thông báo ở lớp ứng dụng bằng cách sử dụng một
trình duyệt Web bằng cách nhấn vào một liên kết (ví dụ, được trang chủ tại www.somebody.com).
Trình duyệt chuyển thông điệp của người dùng (nhấn chuột vào liên kết Web) vào HTTP. Các
quy tắc của HTTP định nghĩa một PDU-gọi là HTTP cụ thể gói tất cả các trình duyệt web
phải sử dụng khi họ yêu cầu một trang Web. Để bây giờ, bạn có thể nghĩ đến những gói tin HTTP
như một phong bì vào những tin nhắn của người sử dụng (có được những trang Web) được đặt. Trong cùng một
cách mà một phong bì được đặt trong thư cần một số thông tin bằng văn bản trong một số
20
đang được dịch, vui lòng đợi..