According to Pecking Order Theory, developed by Myers and Majluf (1984) and Myers(1984), firms having high profits, tend to attain low debt profile because when firms are moreprofitable their first priority is to generate financing through retained earnings because they canmaximize the value of the existing shareholders. If retained earnings are not sufficient, the firmscan then go for debt and if further financing is required they issue new equity. The retainedearning is preferred because it almost has no cost, but if the external resources are used forfinancing like issuance of new shares it may take very high cost. The Pecking Order Theory is as aresult of information asymmetries existing between insiders of the firm and outsiders (Raheman,Zulfiqar and Mustafa, 2007). The model leads managers to adopt their financing policy to minimizethese associated costs. It means that they will prefer internal financing to external financing andvery risky debt to equity.An important issue to note at this juncture is that despite the large tax advantage enjoyed bydebt, why do firms still have low leverage ratios? This issue aggravated the early research onagency theory (Jenson and Meckling, 1976 and Myers, 1997); work on information asymmetries(Myers and Majluf, 1984; Miller, 1977; Myers, 1984; Leland, 1998 and Graham, 2000). Theconclusion is that bankruptcy costs alone is small to offset the value of the shields, and they alsokết luận rằng chi phí cơ quan phải được đưa vào phân tích chi phí-lợi ích để giải thích thủ đôcấu trúc của thực thể công ty.Trong cả hai lý thuyết, cơ hội đầu tư có xu hướng làm cho các công ty sử dụng ít hơn nợ hơn vốn chủ sở hữu.Tuy nhiên, các ngân hàng không thể làm mà không có cao hơn nợ mua lại vào trộn vốn đầu tư của họ bằng cách gửi tiềnvận động. Theo cơ cấu vốn có nhiều kích thước như đòn bẩy, kích thước, tốc độ tăng trưởng, vv, đó làrất khó khăn để nhà nước mà phần là sự lựa chọn tốt nhất để áp dụng để tối đa hóa giá trị của một công tycho các cổ đông của nó cũng như tối đa hóa lợi nhuận của công ty. Có là không có trận chung kết quyết định đólợi nhuận có các quan hệ tích cực với nợ hoặc giữ lại thu nhập. Nó vẫn còn là một điểm mutable! Tuy nhiên,độc đáo của sản phẩm của công ty cũng ảnh hưởng đến tư thế cơ cấu vốn của nó. Ngoài ra, cácphân loại công nghiệp cũng tác động đến cơ cấu vốn là sự đa dạng của các cường độ của cơ bảnyếu tố cũng có thể ảnh hưởng đến cấu trúc. Trong trường hợp của các công ty ngân hàng chủ yếu phụ thuộc vàonợ hoặc nguồn bên ngoài của quỹ và các quỹ của họ vốn chủ sở hữu hoặc vốn để tài chính cho vay và khácđầu tư, đó là cần để xác định loại này của cơ cấu vốn có hiệu lực nào có trênNgân hàng các lợi nhuận (Uremadu, 2000). Hơn nữa, thời gian yêu cầu tài chính cũng gây raCác công ty để đi cho các khoản nợ hoặc vốn chủ sở hữu. Công ty ngân hàng đang là một ngành công nghiệp dịch vụ đã không có kháclựa chọn nhưng để huy động tiền ngắn hạn và dài hạn để chạy cả và của nó cho vay đầu tưactivities. This, of course, will be with an eye on attaining a compromise point between gettingadequate liquidity and getting adequate profitability for the particular banking firm in question(Uremadu, 2000).Therefore the central issue before a financial manager is to determine the appropriate mixbetween equity and debt for his firm. The mix of debt and equity is known as the firm’s capitalstructure. A financial manager must strive to achieve an optimum mix or the optimal capitalstructure for his or her firm; that is, the capital structure which would maximize the market valueof the firm’s shares and assure adequate liquidity. The use of debt affects the return (profitability)and risk to shareholder; it may increase the return to equity funds but (it) always increases its risk.Thus, a proper balance has to be struck between the need for return and the danger of risk. Whenthe shareholders’ return is maximized and risk is minimized, the market value per share (eps) willbe considered optimum (Okafor and Harmon, 2005).This study is an attempt to establish the relationship between corporate capital structureand the profitability-cum-liquidity of the banking system in Nigeria, and to ascertain to whatdirection the impact has been on the total banking system profits within the period under study.
đang được dịch, vui lòng đợi..