Kết quả Protein Expression. ANOVA xác định rằng giai đoạn tăng trưởng thực vật (F = 51.67, tử số [num] df = 3, mẫu số [den] df = 45, P <0,001) và dòng (F = 7,37, num df = 1, den df = 45, P = 0,0094) là nguồn signiÞcant biến đổi trong TIC107 biểu hiện, nhưng địa điểm và nhân rộng (F = 0,18 0.02Ð, num df = 2, den df = 45, P = 0.84 Ð 0,98) thì không. Biểu TIC107 trung bình tiếp cận hoặc vượt quá 50 pg / g trọng lượng tươi trong cả hai dòng ở V3 và R1 giai đoạn tăng trưởng và tăng đến> 100 pg / g của R4 giai đoạn phát triển (Hình. 1). Bởi giai đoạn V6 tăng trưởng, biểu hiện trung bình tiếp cận hoặc vượt quá 200 pg / g trọng lượng tươi, một signiÞcant nhăn trên giai đoạn phát triển sớm hơn (F = 49,14, num df = 3, den df = 50, P <0,0001). Dòng 19.487-35 trưng bày biểu hiện cao hơn một chút so với dòng 19.459-55, với sự khác biệt signiÞcant tại R1 (t-value = 2,25, num df = 1, den df = 10, P = 0,0483) và R6 (t-value = 2,12, num df = 1, den df = 16, P = 0,0496) giai đoạn sinh trưởng của cây. 2002 Argentina Screenhouse thử nghiệm. Bởi vì sự khác biệt về tỷ lệ ấu trùng, ấu trùng hại, pod sản sinh, và năng suất giữa các dòng chủ yếu là do sự khác biệt về tính nhạy cảm sâu bệnh, chúng tôi so sánh các dòng dịch hại một cách riêng biệt. Trong các thử nghiệm các gemmatalis A., dòng là một nguồn signiÞcant biến đổi trong ấu trùng dence inci- (F = 109,99, num df = 2, den df = 24, P < 0,0001), thiệt hại (F = 267,27, num df = 2, den df = 24, P <0,0001), sản xuất pod (F = 61,86, num df = 2, den df = 24, P <0,0001), và năng suất (F = 40,18, num df = 2, den df = 9, P = 0,0003). Vị trí là một nguồn signiÞcant biến đổi trong sản xuất pod (F = 61,86, num df = 1, den df = 24, P <0,0001) nhưng không tỷ lệ ấu trùng hoặc thiệt hại (F = 0,99 Ð1.96, num df = 1, den df = 24, P = 0,18 Ð 0.33). Tái tạo không phải là một nguồn signiÞcant của biến đổi cho bất kỳ tham số (F = 0.61Ð1.08, num df = 3, den df = 24 [9 cho năng suất], P = 0,38 Ð 0,62). Tỷ lệ A. gemmatalis ấu trùng trong việc kiểm tra tiêu cực là signiÞcantly lớn hơn trong các dòng Bt ở cả hai vị trí, và dẫn đến sự defolia- nghiêm trọng của kiểm tra tiêu cực nhưng chỉ theo dõi thiệt hại cho các dòng Bt (Bảng 1). Các thiệt hại nhẹ cho dòng Bt quan sát được tại Oliveros là do khả năng inÞltration vào screenhouse bởi S. frugiperda ấu trùng, mà là chịu tương đối với protein Cry1A (Nyouki et al 1996)., Chứ không phải cho ăn bằng A. gemmatalis ấu trùng (JCG ). In- nhăn tỷ lệ mắc và thiệt hại của ấu trùng trong việc kiểm tra tiêu cực cũng dẫn đến giảm signiÞcantly pod trình sự sản xuất và năng suất (Bảng 1). Trong các thử nghiệm aporema E., đường một lần nữa một nguồn signiÞcant biến đổi trong tỷ lệ ấu trùng (F = 19,46, num df = 2, den df = 24, P <0,0001) và thiệt hại (F = 234,02, num df = 2, den df = 24, P <0,0001), nhưng không pod sản xuất hoặc năng suất (F = 0.22Ð1.16, num df = 2, den df = 24 [9 cho năng suất], P = 0,34 Ð 0,81). Không giống như thử nghiệm các gemmatalis A., vị trí là một nguồn signiÞcant biến đổi trong tỷ lệ ấu trùng E. aporema (F = 6,10, num df = 1, den df = 24, P = 0,024), thiệt hại (F = 7,01, num df = 1 , den df = 24, P = 0,017), và pod trình sự sản xuất (F = 4,58, num df = 1, den df = 24, P = 0,047). Tái tạo lại một lần nữa không phải là một nguồn signiÞcant khả năng vari cho bất kỳ tham số (F = 0.11Ð1.97, num df = 3, den df = 24 [9 cho năng suất], P = 0.16 Ð 0,95). Không có ấu trùng sống hoặc vỏ bị tổn thương đã gặp phải một trong hai dòng Bt ở hai vị trí (Bảng 1). Thiệt hại và ấu trùng sống được phát hiện trong kiểm tra tiêu cực, nhưng mức được insufÞcient để giảm sản xuất vỏ hoặc mang signiÞcantly.
đang được dịch, vui lòng đợi..
