: Giai đoạn 2006- 2008 là giai đoạn mà Việt Nam và nhiều nước khác trê dịch - : Giai đoạn 2006- 2008 là giai đoạn mà Việt Nam và nhiều nước khác trê Việt làm thế nào để nói

: Giai đoạn 2006- 2008 là giai đoạn

: Giai đoạn 2006- 2008 là giai đoạn mà Việt Nam và nhiều nước khác trên thế giới phải đối mặt với tình hình lạm phát gia tăng. Giá các nhóm hàng hoá tiêu dùng tăng cao trong đó giá của nhóm lương thực- thực phẩm là tăng cao nhất. Năm 2007, thiên tai lớn, dịch bệnh diễn biến phức tạp, tai nạn do sự cố sập cầu dẫn cầu Cần Thơ và sự biến động bất lợi của thị trường, giá cả thế giới kéo dài gây hậu quả nghiêm trọng là những yếu tố không thuận lợi cho sự phát triển kinh tế Việt Nam. Giá cả nhiên liệu, vật tư nhất là xăng dầu, phôi thép, thép, nguyên liệu sợi, vải, vật liệu phục vụ công nghiệp dệt may, da giày, hóa chất, phân bón, thức ăn chăn nuôi tăng cao. Thị trường xuất khẩu một số mặt hàng biến động phức tạp như dệt may, da giày, thủy sản, thủ công mỹ nghệ, xe đạp và phụ tùng, động cơ điện.. Điều đó đã làm giá cả tiêu dùng trong nước tăng cao không có điểm dừng. Theo tổng cục thống kê, giá tiêu dùng năm 2007 tăng hơn 13%-, kỷ lục trong vòng một thập kỷ qua.
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO và thực hiện cam kết PNTR với Hoa Kỳ, do đó, thị trường xuất khẩu mở rộng, các rào cản thương mại Việt Nam với các nước thành viên WTO được dỡ bỏ hoặc hạn chế. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao qua Hội nghị cấp cao APEC năm 2006. Quan hệ ngoại giao, các hoạt động hợp tác kinh tế, đầu tư, mở rộng thị trường xuất khẩu được củng cố và tăng cường thông qua các cuộc thăm cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước cùng với sự tham gia của các nhà doanh nghiệp. Tình hình chính trị ổn định, an ninh - quốc phòng bảo đảm, đã tạo môi trường thuận lợi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các doanh nghiệp trong nước. Thị trường và giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam diễn biến theo hướng cầu lớn hơn cung như dầu thô, gạo, cà phê, chè, thủy sản... Do đó, giá cả các mặt hàng này tăng cao, có lợi cho hoạt động xuất khẩu.
Trong năm 2007, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu quan trọng trong lĩnh vực kinh tế. Tốc độ tăng trưởng đạt 8,48%, cao nhất trong mười năm qua. Tổng sản phẩm quốc nội GDP tính theo giá hiện hành đạt 1.144 nghìn tỷ đồng tương đương 71,4 tỷ USD. Thu nhập bình quân đầu người ở mức 835 USD, cao hơn dự kiến, và sẽ vươn tới 960 USD trong năm 2008. Lần đầu tiên dòng vốn đầu tư nước ngoài(FDI) đổ vào Việt Nam đạt 20,3 tỷ USD, với những gương mặt tên tuổi như Foxconn, Piaggio, Keangnam. Việt Nam nhận được cam kết tài trợ 5,4 tỷ USD từ nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA).
Thị trường chứng khoán cũng có nhiều biến động trong năm này, chỉ số Vn- Index có lúc đạt tới đỉnh 170,67 rồi sụt giảm liên tục trong những tháng sau đó. Chỉ số VN- Index chỉ lanh quanh trong khoảng từ 900 đến 1000 điểm thậm chí có lúc tụt xuống đáy là 883,9 điểm vào ngày 6/8. Chỉ thị 03 của Ngân hàng nhà nước về khống chế dư nợ cho vay đầu tư chứng khoán ở mức 3%, buộc nhiều ngân hàng dừng cho vay và rốt ráo xiết nợ, không ít nhà đầu tư hụt vốn. Thêm vào đó, năm 2007 là năm mà nhiều doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực xương sống của nền kinh tế chào bán cổ phần lần đầu IPO khiến cho thị thường chứng khoán vốn non trẻ của nước ta thêm lận đận. Mặc dù vây, đây vẫn là kênh huy động vốn hiệu quả của nền kinh tế, quy mô vốn hóa của thị trường tập trung đã chiếm hơn 40% GDP.
Nhờ tác động của chủ trương thoáng hơn với việc sở hữu nhà của Việt Kiều và người nước ngoài, thị trường bất động sản sôi động trở lại sau nhiều năm trầm lắng. Giá nhà đất trải qua 3 đợt tăng cao, vào tháng 3, 8 và 10. Cơn sốt lên đến đỉnh điểm khi hàng nghìn khách hàng chen lấn đi đặt tiền “giữ chỗ” tại những dự án chung cư cao cấp hồi tháng 10. Trong số đó không ít là giới đầu cơ chuyên nghiệp, những người lập tức chuyển nhượng xuất mua cho khách hàng cấp 2-3 với giá gấp 1,5-2 lần mức công bố của chủ đầu tư. Làn sóng đầu tư vào Việt Nam tăng cao cũng kéo theo nhu cầu thuê, mua nhà ở phát triển vượt bậc.
Năm 2008 tiếp tục là năm khó khăn đối với Việt Nam. Giá dầu thô và giá nhiều loại nguyên liệu, hàng hóa khác trên thị trường thế giới tăng mạnh trong những tháng giữa năm kéo theo sự tăng giá ở mức cao của hầu hết các mặt hàng trong nước; lạm phát xảy ra tại nhiều nước trên thế giới; khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm cho một số nền kinh tế lớn suy thoái, kinh tế thế giới suy giảm; thiên tai; dịch bệnh đối với cây trồng vật nuôi xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư.Trong bối cảnh đó, chính phủ Việt Nam tiếp tục theo đuổi mục tiêu tăng trưởng cao nhằm sớm hoàn thành mục tiêu 5 năm; các biện pháp và công trình được triển khai dồn dập mà không có sự quản lý chặt chẽ. Kết quả là cung tín dụng tăng trên 50%, nhập siêu vượt mức an toàn, thị trường chứng khoán sụt giảm kỷ lục, bong bóng thị trường bất động sản bị vỡ. Nền kinh tế rơi vào cả hai trạng thái phức tạp lạm phát và giảm phát. Năm 2008 lạm phát của Việt Nam đã vượt lên mức hai con số, đỉnh điểm đạt tới 23%.
Hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục tăng trưởng nhưng có dấu hiệu chậm lại ở những tháng cuối năm; trong đó nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất giảm nhiều nhất chứng tỏ có sự chững lại trong đầu tư và sản xuất. Bước sang quý 1/2009, lần đầu tiên sau nhiều năm, cán cân thương mại của Việt Nam ở trạng thái xuất siêu.
Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, môi trường kinh doanh có sức hấp dẫn với nhiều nhà đầu tư nước ngoài (đầu tư nước ngoài năm 2007 đạt trên 20 tỷ USD), tốc độ tăng trưởng kinh tế cao ( năm 2007 tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là 8.5% đứng thứ hai thế giới chỉ sau Trung Quốc), thị trường chứng khoán và bất động sản hình thành và bắt đầu phát triển, cơ chế thị trường định hướng XHCN được định hình, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao rõ rệt (thành viên WTO, lần đầu tiên được bầu là thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc…). Bắt đầu từ cuối năm 2007, nền kinh tế Việt Nam xuất hiện nhiều yếu tố thể hiện sự bất ổn của tăng trưởng kinh tế quá nóng. Lạm phát tăng cao, trong 6 tháng đầu năm 2008 lạm phát đã lên tới 18,44% so với tháng 12/2007. Chỉ số lạm phát tăng cao đã gây nên những hệ lụy rất lớn trong đời sống xã hội, nhất là đến nông dân và những người có thu nhập thấp, đe dọa tính ổn định vĩ mô, tác động đến môi trường kinh doanh, đầu tư và tăng trưởng, những thành tựu của công cuộc xóa đói giảm nghèo, gây tâm lý bất an cho các nhà đầu tư và người dân. Nguyên nhân dẫn đến sự tăng nhanh của chỉ số lạm phát là do quá trình tăng trưởng kinh tế của nước ta thiếu bền vững, tăng trưởng GDP cao nhưng chủ yếu tăng trưởng theo chiều rộng, hiệu quả đầu tư thấp (chỉ số ICOR cao). Đầu tư công của nhà nước không đồng bộ, hiệu quả chưa cao thể qua nhiều công trình được nhà nước đầu tư hàng chục tỷ đồng nhưng xây dựng kém chất lượng gây lãng phí thời gian và tiền của. Kết quả của đầu tư ồ ạt, chạy theo số lượng là hàng loạt các công trình trị giá hàng tỷ đô la Mỹ ở các địa phương, các tập đoàn kinh tế liên quan đến năng lượng, kết cấu hạ tầng nguồn nhân lực ở tầm kinh tế quốc dân, rất quan trọng cho quốc kế sinh nhai đã được triển khai nhanh chóng, thiếu đi sự thẩm định cần thiết của các chuyên gia. Tình trạng này làm cho sự cân bằng các nguồn lực trong nền kinh tế bị phá vỡ. Thêm vào đó là sự quản lý kinh tế lỏng lẻo, tập trung đầu tư cho các tập đoàn kinh tế nhà nước vốn không được xây dựng trên nền tảng chắc chắn mà chỉ thí điểm với nhiều ưu tiên trong quá trình hoạt động, để cho các tập đoàn này tự do phát triển sang nhiều lĩnh vực khác như đầu tư vào chứng khoán, thị trường bất động sản, ngân hàng thậm chí là thành lập các ngân hàng thương mại, đã làm cung tín dụng trong nước tăng rất cao, lạm phát tăng vọt lên 25%, nhập siêu vượt quá mức an toàn, chứng khoán sụt giảm ở mức kỷ lục, bong bóng thị trường bất động sản bị vỡ. Trước tình hình đó, từ tháng 3/2008 Chính phủ đã đưa 8 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội. Lãi suất cơ bản được nâng lên, đồng thời tăng tỉ lệ DTBB, phân bổ tín phiếu bắt buộc, cắt giảm đầu tư, chi tiêu chính phủ... Các biện pháp kiểm soát lạm phát gây ra gánh nặng cho các ngân hàng thương mại và những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặc dù lạm soát nhanh chóng được kìm lại nhưng thực chất trong nền kinh tế vẫn còn tồn đọng nhiều điểm yếu kém đặc biệt là trong khâu quản lý. Các ngân hàng gặp khó khăn trong huy động vốn, các doanh nghiệp nhỏ không thể xoay xở được vốn cho sản xuất. Chính phủ đã phải điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2008 từ 8,5-9% xuống còn 7%. Nền kinh tế chưa kịp định hình sau lạm phát thì những chấn động từ “cơn bão tài chính” toàn cầu tiếp tục làm tổn thương nền kinh tế nước
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Việt) 1: [Sao chép]
Sao chép!
: Giai đoạn 2006-2008 là giai đoạn mà Việt Nam và nhiều nước ông trên thế giới phải đối mặt với tình chuyển lạm phát gia tăng. Giá các nhóm hàng hóa tiêu dùng tăng cao trong đó giá của nhóm lương thực-thực phẩm là tăng cao nhất. Năm 2007, thiên tai lớn, dịch bệnh lại biến phức tạp, tai nạn làm sự cố sập cầu dẫn cầu Cần Thơ và sự biến động bất lợi của thị trường, giá đoàn thế giới kéo 戴思杰 gây tỉnh hậu tên nghiêm trọng là những yếu tố không thuận lợi cho sự phát triển kinh tế Việt Nam. Giá đoàn nhiên suất, vật tư nhất là xăng dầu, phôi thép, thép, nguyên suất sợi, vải, công suất tên vụ công nghiệp dệt may, da giày, hóa chất, phân bón, ngữ ăn chăn nuôi tăng cao. Thị trường cạnh khẩu một số mặt hàng biến động phức tạp như dệt may, da giày, thủy ở, thủ công mỹ nghệ, xe đạp và phụ tùng, động cơ điện... Điều đó đã làm giá đoàn tiêu dùng trong nước tăng cao không có điểm dừng. Theo tổng cục thống kê, giá tiêu dùng năm 2007 tăng hơn 13%-, kỷ lục trong vòng một thập kỷ qua. Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính ngữ của WTO và thực hiện cam kết PNTR với Hoa Kỳ, do đó, thị trường cạnh khẩu mở rộng, các rào cản thương mại Việt Nam với các nước thành viên WTO được dỡ bỏ hoặc hạn chế. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao qua Hội nghị cấp cao APEC năm 2006. Quận hay ngoại giao, các hoạt động hợp NXB kinh tế, đầu tư, mở rộng thị trường cạnh khẩu được củng cố và tăng cường thông qua các cuộc thăm cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước cùng với sự tham gia của các nhà doanh nghiệp. Tình chuyển chính trị ổn định, một ninh – quốc phòng bảo đảm, đã chức môi trường thuận lợi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các doanh nghiệp trong nước. Thị trường và giá đoàn nhiều mặt hàng cạnh khẩu của Việt Nam lại biến theo hướng cầu lớn hơn cung như dầu thô, gạo, cà phê, chè, thủy ở... Do đó, giá đoàn các mặt hàng này tăng cao, có lợi cho hoạt động cạnh khẩu.Trong năm 2007, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu quan trọng trong lĩnh vực kinh tế. Thứ độ tăng trưởng đạt 8,48%, cao nhất trong mười năm qua. Tổng ở phẩm quốc nội GDP tính theo giá hiện hành đạt 1.144 nghìn tỷ đồng tương đương 71,4 tỷ USD. Thu nhập bình quân đầu người ở mức 835 USD, cao hơn dự kiến, và sẽ vươn tới 960 USD trong năm 2008. Lần đầu tiên dòng vốn đầu tư nước ngoài(FDI) đổ vào Việt Nam đạt 20,3 tỷ USD, với những gương mặt tên tuổi như Foxconn, Piaggio, Keangnam. Việt Nam nhận được cam kết tài trợ 5,4 tỷ USD từ nguồn vốn viện trợ phát triển chính ngữ (ODA).Thị trường chứng khoán cũng có nhiều biến động trong năm này, chỉ số Vn - Index có lúc đạt tới đỉnh 170,67 rồi sụt giảm liên tục trong những tháng sau đó. Chỉ số VN - Index chỉ lãnh quanh trong khoảng từ 900 đến 1000 điểm thậm chí có lúc tụt xuống đáy là 883,9 điểm vào ngày 6/8. Chỉ thị 03 của Ngân hàng nhà nước về khống chế dư nợ cho vay đầu tư chứng khoán ở mức 3%, buộc nhiều ngân hàng dừng cho vay và rốt ráo xiết nợ, không ít nhà đầu tư hụt vốn. Thêm vào đó, năm 2007 là năm mà nhiều doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực xương sống của nền kinh tế chào bán cổ phần lần đầu IPO khiến cho thị thường chứng khoán vốn không con của nước ta thêm lận đận. Mặc dù vây, đây vẫn là kênh huy động vốn hiệu tên của nền kinh tế, quy mô vốn hóa của thị trường tổ trung đã chiếm hơn 40% GDP.Nhờ NXB động của hào trương thoáng hơn với việc sở hữu nhà của Việt Kiều và người nước ngoài, thị trường bất động ở sôi động trở lại sau nhiều năm trầm lắng. Giá nhà đất trải qua 3 đợt tăng cao, vào tháng 3, 8 và 10. Cơn sốt lên đến đỉnh điểm khi hàng nghìn khách hàng chen lấn đi đặt tiền "giữ chỗ" tại những dự án chung cư cao cấp hồi tháng 10. Trong số đó không ít là giới đầu cơ chuyên nghiệp, những người lập tức chuyển nhượng cạnh mua cho khách hàng cấp 2-3 với giá gấp 1,5-2 lần mức công cách của hào đầu tư. Làn sóng đầu tư vào Việt Nam tăng cao cũng kéo theo nhu cầu thuê, mua nhà ở phát triển vượt bậc.Năm 2008 truyện tục là năm khó khăn đối với Việt Nam. Giá dầu thô và giá nhiều loại nguyên suất, hàng hóa ông trên thị trường thế giới tăng mạnh trong những tháng giữa năm kéo theo sự tăng giá ở mức cao của hầu hết các mặt hàng trong nước; lạm phát xảy ra tại nhiều nước trên thế giới; khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm cho một số nền kinh tế lớn suy thoái, kinh tế thế giới suy giảm; Thiên tai; Dịch bệnh đối với cây trồng vật nuôi xảy ra liên truyện trên địa bàn đoàn nước gây ảnh hưởng lớn đến ở cạnh và đời sống dân cư. Trong bối cảnh đó, chính phủ Việt Nam truyện tục theo đuổi mục tiêu tăng trưởng cao nhằm sớm hoàn thành mục tiêu 5 năm; Các biện pháp và công trình được triển khai dồn dập mà không có sự quản lý chặt chẽ. Kết tên là cung tín Scholars VietJet trên 50%, nhập siêu vượt mức an toàn, thị trường chứng khoán sụt giảm kỷ lục, bong bóng thị trường bất động ở bị vỡ. Nền kinh tế rơi vào đoàn hai trạng thái phức tạp lạm phát và giảm phát. Năm 2008 lạm phát của Việt Nam đã vượt lên mức hai con số, đỉnh điểm đạt tới 23%. Hoạt động cạnh nhập khẩu truyện tục tăng trưởng nhưng có dấu hiệu chậm lại ở những tháng cuối năm; trong đó nhập khẩu nguyên suất cho ở cạnh giảm nhiều nhất chứng tỏ có sự chững lại trong đầu tư và ở cạnh. Bước sang quý 1/2009, lần đầu tiên sau nhiều năm, quý cần thương mại của Việt Nam ở trạng thái cạnh siêu.Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, môi trường kinh doanh có sức hấp dẫn với nhiều nhà đầu tư nước ngoài (đầu tư nước ngoài năm 2007 đạt trên 20 tỷ USD), tốc độ tăng trưởng kinh tế cao ( năm 2007 tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là 8.5% đứng thứ hai thế giới chỉ sau Trung Quốc), thị trường chứng khoán và bất động sản hình thành và bắt đầu phát triển, cơ chế thị trường định hướng XHCN được định hình, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao rõ rệt (thành viên WTO, lần đầu tiên được bầu là thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc…). Bắt đầu từ cuối năm 2007, nền kinh tế Việt Nam xuất hiện nhiều yếu tố thể hiện sự bất ổn của tăng trưởng kinh tế quá nóng. Lạm phát tăng cao, trong 6 tháng đầu năm 2008 lạm phát đã lên tới 18,44% so với tháng 12/2007. Chỉ số lạm phát tăng cao đã gây nên những hệ lụy rất lớn trong đời sống xã hội, nhất là đến nông dân và những người có thu nhập thấp, đe dọa tính ổn định vĩ mô, tác động đến môi trường kinh doanh, đầu tư và tăng trưởng, những thành tựu của công cuộc xóa đói giảm nghèo, gây tâm lý bất an cho các nhà đầu tư và người dân. Nguyên nhân dẫn đến sự tăng nhanh của chỉ số lạm phát là do quá trình tăng trưởng kinh tế của nước ta thiếu bền vững, tăng trưởng GDP cao nhưng chủ yếu tăng trưởng theo chiều rộng, hiệu quả đầu tư thấp (chỉ số ICOR cao). Đầu tư công của nhà nước không đồng bộ, hiệu quả chưa cao thể qua nhiều công trình được nhà nước đầu tư hàng chục tỷ đồng nhưng xây dựng kém chất lượng gây lãng phí thời gian và tiền của. Kết quả của đầu tư ồ ạt, chạy theo số lượng là hàng loạt các công trình trị giá hàng tỷ đô la Mỹ ở các địa phương, các tập đoàn kinh tế liên quan đến năng lượng, kết cấu hạ tầng nguồn nhân lực ở tầm kinh tế quốc dân, rất quan trọng cho quốc kế sinh nhai đã được triển khai nhanh chóng, thiếu đi sự thẩm định cần thiết của các chuyên gia. Tình trạng này làm cho sự cân bằng các nguồn lực trong nền kinh tế bị phá vỡ. Thêm vào đó là sự quản lý kinh tế lỏng lẻo, tập trung đầu tư cho các tập đoàn kinh tế nhà nước vốn không được xây dựng trên nền tảng chắc chắn mà chỉ thí điểm với nhiều ưu tiên trong quá trình hoạt động, để cho các tập đoàn này tự do phát triển sang nhiều lĩnh vực khác như đầu tư vào chứng khoán, thị trường bất động sản, ngân hàng thậm chí là thành lập các ngân hàng thương mại, đã làm cung tín dụng trong nước tăng rất cao, lạm phát tăng vọt lên 25%, nhập siêu vượt quá mức an toàn, chứng khoán sụt giảm ở mức kỷ lục, bong bóng thị trường bất động sản bị vỡ. Trước tình hình đó, từ tháng 3/2008 Chính phủ đã đưa 8 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội. Lãi suất cơ bản được nâng lên, đồng thời tăng tỉ lệ DTBB, phân bổ tín phiếu bắt buộc, cắt giảm đầu tư, chi tiêu chính phủ... Các biện pháp kiểm soát lạm phát gây ra gánh nặng cho các ngân hàng thương mại và những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặc dù lạm soát nhanh chóng được kìm lại nhưng thực chất trong nền kinh tế vẫn còn tồn đọng nhiều điểm yếu kém đặc biệt là trong khâu quản lý. Các ngân hàng gặp khó khăn trong huy động vốn, các doanh nghiệp nhỏ không thể xoay xở được vốn cho sản xuất. Chính phủ đã phải điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2008 từ 8,5-9% xuống còn 7%. Nền kinh tế chưa kịp định hình sau lạm phát thì những chấn động từ “cơn bão tài chính” toàn cầu tiếp tục làm tổn thương nền kinh tế nước
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Việt) 2:[Sao chép]
Sao chép!
: Giai đoan 2006- 2008 is giai đoạn mà Việt Nam and many nước khác trên thế giới đối mặt must be with tình hình lạm phát gia increase. Giá groups hàng hoá tiêu dùng cao increase in which the group giá lương thực- thực phẩm is increase cao nhất. Năm 2007, thiên tai lớn, dịch bệnh diễn biến phức tạp, tai nạn làm sự cố sập cầu dẫn cầu Cần Thơ and sự biến động bất lợi of thị trường, giá cả thế giới kéo dài cause hậu quả nghiêm trọng is the elements do not thuận lợi cho sự phát triển kinh tế Việt Nam. Giá cả nhiên liệu, vật tư nhất is xăng dầu, phôi thép, thép, nguyên liệu sợi, vải, vật liệu phục vụ công nghiệp dệt may, da giày, hóa chất, phân bón, thức ăn chăn nuôi increase cao. Thị trường xuất khẩu a number mặt hàng biến động phức tạp such as dệt may, da giày, thủy sản, thủ công mỹ nghệ, xe đạp and phụ tùng, động cơ điện .. Điều which has làm giá cả tiêu dùng in nước increase cao without điểm dừng. Theo tổng cục thống kê, giá tiêu dùng năm 2007 increase than 13% -., Kỷ lục within one thập kỷ qua
Năm 2007 is năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO and execute cam kết PNTR for Hòa Kỳ, làm then, thị trường xuất khẩu extension, the rào cản thương mại Việt Nam with nước thành viên WTO be dỡ bỏ or hạn chế. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế been nâng cao qua Hội nghị cấp cao APEC năm 2006. Quan hệ ngoại giao, the hoạt động hợp tác kinh tế, đầu tư, mở rộng thị trường xuất khẩu be củng cố and grow cường thông through cuộc thăm cấp cao lãnh đạo Đảng of, Nhà nước along with sự tham gia of the nhà doanh nghiệp. Tình hình chính trị ổn định, an ninh - quốc phòng bảo đảm, đã tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư its nhà nước ngoài as well as the doanh nghiệp in nước. Thị trường giá cả and many mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam diễn biến theo hướng cầu larger cung such as plain dầu, gạo, cà phê, chè, thủy sản ... Do that, giá all mặt hàng this increase cao, may lợi cho hoạt động xuất khẩu.
Trong năm 2007, Việt Nam has been a number đạt thành tựu quan trọng in lĩnh vực kinh tế. Tốc độ increase trưởng đạt 8,48%, cao nhất in mười năm qua. Tổng sản phẩm quốc nội GDP tính theo giá hiện hành đạt 1,144 nghìn tỷ đồng tương đương 71,4 tỷ USD. Thu nhập bình quân đầu người ở level 835 USD, cao than dự kiến, and will vươn to 960 USD in năm 2008. Lần đầu tiên lines Cap đầu tư nước ngoài (FDI) đổ vào Việt Nam Đạt 20,3 tỷ USD, với those gương mặt tên tuổi such as Foxconn, Piaggio, Keangnam. Việt Nam got cam kết tài trợ 5,4 tỷ USD từ nguồn viện trợ phát Cap triển chính thức (ODA).
Thị trường chứng khoán also nhiều biến động in this năm, chỉ số Vn-Index may lúc đạt đỉnh 170 to , 67 rồi sụt Diminished liên tục in the tháng then. Chỉ số VN-Index chỉ lanh quanh trong khoảng từ 900 to 1000 điểm even you lúc tụt xuống đáy is 883,9 điểm vào ngày 6/8. Chỉ Thị 03 of Ngân hàng nhà nước về Khổng chế dư nợ cho vay đầu tư chứng khoán at level 3%, buộc nhiều ngân hàng dừng cho vay and rốt ráo xiết nợ, do not ít nhà đầu tư hụt Cap. Thêm vào that, năm 2007 is năm mà nhiều doanh nghiệp thuộc lĩnh vực its xương sống of nền kinh tế chào bán cổ phần lần đầu IPO ​​make cho thị thường chứng khoán Cap phi trẻ of nước ta thêm lận Đàn. Mặc though vây, đây still is kênh huy động Cap hiệu quả of nền kinh tế, quy mô Cap hóa of thị trường tập trung was used than 40% GDP.
Nhờ tác động của chủ trương thoáng than as việc sở hữu nhà của Việt Kiều and người nước ngoài, thị trường bất động sản Sôi động trở lại sau nhiều năm trầm lắng. Giá nhà đất trải qua 3 đợt increase cao, vào tháng 3, 8 and 10 Cơn sốt lên to đỉnh điểm while hàng nghìn khách hàng chen Lan đi đặt tiền "placeholder" tại those dự án chung cư cao cấp hồi tháng 10. Among does not be ít giới đầu cơ chuyên nghiệp, users lập tức chuyển nhượng xuất mua cho khách hàng cấp 2-3 for giá gấp 1,5-2 lần level công bố of chủ đầu tư. Làn sóng đầu tư vào Việt Nam Tầng cao are also kéo theo nhu cầu thuê, mua nhà ở phát triển beyond bậc.
Năm 2008 tiếp tục khó khăn năm is against Việt Nam. Giá dầu plain and giá nhiều loại nguyên liệu, hàng hóa khác trên thị trường thế giới increase mạnh in the middle tháng năm kéo theo sự tăng giá at level cao of the most mặt hàng in nước; lạm phát xảy ra tại nhiều nước trên thế giới; khủng hoảng tài chính toàn cầu làm cho have some of nền kinh tế lớn suy thoái, kinh tế thế giới suy Diminished; tai thiên; dịch bệnh against cây trồng vật nuôi xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước cause ảnh hưởng lớn to sản xuất and đời sống dân cư.Trong bối cảnh that, phủ chính Việt Nam tiếp tục theo đuổi mục tiêu increase trưởng cao nham sớm hoàn thành mục tiêu 5 năm; the biện pháp công trình and be triển khai Don dập without sự quản lý chặt ché. Kết quả is cung tín dụng Augmented trên 50%, nhập siêu beyond level một toàn, thị trường chứng khoán sụt Diminished kỷ lục, bong bóng thị trường bất động sản bị vỡ. Nền kinh tế rơi vào trạng thái both phức tạp lạm phát and shrink phát. Năm 2008 lạm phát của Việt Nam was beyond lên level hai con số, đỉnh điểm đạt to 23%.
Hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục increase trưởng but có dấu hiệu chậm lại out of those tháng cuối năm; in which nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất Diminished nhiều nhất chứng tỏ sự has Chung within đầu tư sản xuất and. Bước sang quý 1/2009, lần đầu tiên sau nhiều năm, cán cân thương mại của Việt Nam out trạng thái xuất siêu.
Trọng those năm recently nền kinh tế nước ta tiếp tục phát retained triển, đời sống nhân dân cải thiện be , môi trường kinh doanh may sức hấp dẫn as many nhà đầu tư nước ngoài (đầu tư nước ngoài năm 2007 đạt trên 20 tỷ USD), tốc độ increase trưởng kinh tế cao (năm 2007 increase trưởng kinh tế của Việt Nam is 8,5% Đứng thứ hai thế giới chỉ sau Trung Quốc), thị trường chứng khoán and bất động sản hình thành and bắt đầu phát triển, cơ chế thị trường định hướng XHCN been định hình, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế been nâng cao RET rõ (thành viên WTO, lần đầu tiên bầu be be thành viên could thường trực Hội đồng Bảo một Liên hợp quốc ...). Bắt đầu từ cuối năm 2007, nền kinh tế Việt Nam xuất hiện nhiều yếu tố thể hiện sự bất ổn of increase trưởng kinh tế quá nóng. Lạm phát increase cao, trong 6 tháng đầu năm 2008 lạm phát have to lên 18,44% against tháng 12/2007. Chỉ số lạm phát increase cao has cause and will be the following hệ lụy much lớn in đời sống xã hội, nhất is to nông dân and users have income thấp, đe dọa tính ổn định vĩ mô, tác động to môi trường kinh doanh, đầu tư and grow trưởng, those thành tựu of công cuộc erase đói Diminished nghèo, cause tâm lý bất một cho its nhà đầu tư and người dân. Nguyên nhân dẫn to sự increase nhanh of chỉ số lạm phát is làm quá trình increase trưởng kinh tế of nước ta thiếu bền vững, increase trưởng GDP cao but chủ yếu increase trưởng theo chiều rộng, hiệu quả đầu tư thấp (chỉ số ICOR cao ). Đầu tư công of nhà nước can đồng bộ, hiệu quả chưa cao thể qua nhiều công trình been nhà nước đầu tư hàng chục tỷ đồng xây dựng but kém chất lượng cause lãng phí thời gian and the tiền. Kết quả of đầu tư ồ ạt, chạy theo số lượng is hàng loat its công trình trị giá hàng tỷ đô la Mỹ at its địa phương, files đoàn kinh tế related năng lượng, kết cấu hạ tầng nguồn nhân lực at tầm kinh tế quốc dân, very important cho quốc kế sinh nhai has been triển khai nhanh chóng, thiếu đi sự thẩm định cần thiết of the chuyên gia. Tình trạng this làm cho sự cân bằng its nguồn lực in background kinh tế bị phá vỡ. Thêm vào which is sự quản lý kinh tế lỏng Leo, tập trung đầu tư cho files đoàn kinh tế nhà nước Cap not be xây dựng trên nền tảng chắc chắn mà chỉ thí điểm as many priority in quá trình hoạt động, để cho files đoàn this tự do phát triển sang nhiều lĩnh vực khác like đầu tư vào chứng khoán, thị trường bất động sản, ngân hàng even as thành lập the ngân hàng thương mại, đã làm cung tín dụng in nước grow much cao, lạm phát increase VOT lên 25%, nhập siêu exceeded level một toàn, chứng khoán sụt Diminished at level kỷ lục, bong bóng thị trường bất động sản bị vỡ. Trước tình hình that, từ tháng 3/2008 Chính phủ was specified 8 nhóm giải pháp kiềm chế lạm Nhâm phát, ổn định vĩ mô and ensure một sinh xã hội. Lãi suất cơ bản been nâng lên, đồng thời increase tỉ lệ DTBB, phân bổ tín phiếu bắt buộc, cắt Diminished đầu tư, chi tiêu chính phủ ... Các biện pháp kiểm soát lạm phát cause gánh nặng cho ngân hàng thương the mại and those doanh nghiệp vừa and small. Mặc though lạm soát nhanh chóng be kìm lại but thực chất in background kinh tế còn tồn đọng retained nhiều điểm yếu kém đặc biệt is in khâu quản lý. Các ngân hàng gặp khó khăn in huy động Cap, the doanh nghiệp nhỏ could not be xoay XO Cap cho sản xuất. Chính phủ was right điều chỉnh mục tiêu increase trưởng kinh tế năm 2008 từ 8,5-9% xuống còn 7%. Nền kinh tế chưa kip định hình sau lạm phát thì those chấn động từ "cơn bão tài chính" toàn cầu tiếp tục làm tổn thương nền kinh tế nước
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2024 I Love Translation. All reserved.

E-mail: