Mô hình này dựa trên Parker, Bindl, và Strauss (2010) mô hình động lực chủ động
và nghiên cứu hiện còn công nhận tầm quan trọng của lãnh đạo transfor- mational và khí hậu tổ chức sáng tạo theo kiểu hành vi (ví dụ, Bettencourt, 2004; Choi, 2007; Scott & Bruce, 1994; Waikayi, Fearon, Morris & McLaughlin, 2012).
1. Khung lý thuyết và giả thuyết
dân không phải lúc nào người nhận thụ động của Các ràng buộc về môi trường trên hành vi của mình; chứ không phải họ cố ý trực tiếp và có thể thay đổi hoàn cảnh hiện tại của họ (Crant, 2000). Fuller, Marler, và Hester (2006) cho rằng quyền truy cập vào thông tin chiến lược và nguồn lực có thể cung cấp cơ hội cho các cá nhân nhận nuôi haviors được- thay đổi định hướng, nhưng chỉ có một số trong số họ có thể đáp ứng với cơ hội này. Những người xây dựng các hành vi chủ động, chẳng hạn như thay đổi hướng của OCB, có thể là đặc điểm phân biệt trong-, lãnh đạo và khí hậu tổ chức.
Theo quan điểm interactionist, một số yếu tố tình huống có thể gây ra đặc điểm tính cách mà cư trú trong các cá nhân. Do vậy, những đặc điểm như vậy là cần thiết để hiểu các yếu tố tình huống can thiệp vào hành vi làm việc chủ động (Fuller & Marler, 2009). Tuy nhiên, Mumford và Gustafson (1988) lập luận rằng, ngay cả khi các cá nhân phát triển khả năng của họ để đổi mới, niềm tin của họ về những hậu quả của các hành động như vậy trong một môi trường nhất định có thể đặt điều kiện sẵn sàng của họ để làm cho các nỗ lực sản xuất. Trong bối cảnh này, cả lãnh đạo và nhận thức của một người liên quan đến khí hậu tổ chức trở thành increas- ingly quan trọng.
Theo Parker et al. (2010), một số đặc điểm của cá nhân, chẳng hạn như tính cách, bối cảnh làm việc, và sự tương tác giữa hai đặc điểm này, hành vi ảnh hưởng thông qua các quốc gia động lực. Yếu tố hoàn cảnh, cụ thể là khí hậu tổ chức và lãnh đạo, động viên uals individ- để thực hiện các hành động dẫn đến một nguy cơ tiềm ẩn cao, tạo ra các thành viên của tổ chức các quốc gia nhận thức tạo động lực thúc đẩy họ thực hiện hành vi thay đổi định hướng (Dutton & Ashford, 1993).
1.1. Bề rộng vai trò tự hiệu quả (RBSE)
Tự hiệu quả là rất quan trọng khi tham gia vào các hành vi chủ động, như những hành vi này kéo theo những rủi ro nhất định về tâm lý cho các cá nhân. Cá nhân tự tin vào khả năng của họ là dễ bị xem xét rằng hành động của họ sẽ thành công, và do đó giả định nguy cơ bị chủ động (Chen & Chang, 2012; Griffin, Parker, & Mason, 2010; Morrison & Phelps, 1999; Parker , Williams, & Turner, 2006). Niềm tự hiệu quả liên kết với mức độ cao của tính phí (Morrison & Phelps, 1999) và tự động (Frese, Garst, & Fay, 2007), cả hai cấu trúc là tương tự để thay đổi định hướng hành vi công dân.
Rộng vai trò tự hiệu quả (RBSE) đề cập đến khả năng nhận thức của nhân viên mang ra một tập hợp rộng lớn hơn và chủ động hơn các nhiệm vụ công việc mà mở rộng ra ngoài các yêu cầu kỹ thuật theo quy định (Parker, 1998; Caác tónh, Cepeda-Carrion, & Chin, 2012). Nghiên cứu báo cáo rằng hiện còn RBSE là một yếu tố dự báo mạnh mẽ của các hành vi như làm đề nghị (axtell et al., 2000), giải quyết các hành vi chủ động (Ohly & Fritz, 2007), và chủ động vấn đề (Parker, Williams, Turner, 2006). Ngoài ra, RBSE là một yếu tố dự báo quan trọng của sự đổi mới của nhân viên (axtell et al, 2000;. Siegel & Renko, 2012) và hiệu chủ động (Griffin, Parker, và Neal, 2008). Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng tự hiệu quả là một yếu tố dự báo quan trọng của hai loại hành vi chủ động: sáng kiến cá nhân và phụ trách (Morrison & Phelps, 1999). Trong ánh sáng của những phát hiện này, tác giả cho rằng vai trò rộng tự hiệu quả là một biến giải thích quan trọng để cân nhắc khi tham gia vào các hành vi công dân thay đổi theo định hướng.
đang được dịch, vui lòng đợi..
