Thịt màu nâu (liên kết với CI) được mô tả như là sự đổi màu nâu của các phân đoạn trắng chia tách nhất theo phần trăm, màu nhạt (mất màu đỏ) của nhất theo phần trăm trong lựu (Elyatem và Kader, 1984), flesh, hoặc hố khoang màu nâu trong đào và cây lê (Lurie và Crisosto, 2005), nội bộ flesh browning (xám bột giấy, bột giấy màu nâu tại chỗ, mạch máu) trong bơ (Ali et al, 2004) , màu nâu của hạt giống cà chua (Kader và Morris, 1975), bên trong màu nâu mà bắt đầu trong flesh xung quanh hố và lan tỏa ra nước ngoài đối với da theo thời gian tiến hành trong ô liu (Nanos et al., 2002), lõi flush, flesh browning, Niu Di-lân, mềm scald, ribbon scald, sâu scald, hoặc khuếch tán màu nâu của vỏ bên ngoài trong táo (Meheriuk và ctv., 1994), và màu nâu hạt và bột giấy mô trong cà tím (Rodriguez et al. 2001). flesh liên quan đến các triệu chứng khác liên quan đến nhiệt độ thấp lí bao gồm phát triển-ment của một vòng hoặc khu vực của mô hạt, ngâm nước trong ngoài pericarp cuối Kiwi (Lallu, 1997), stylar và bột giấy tại chỗ và bột màu xám avocado, mà là curtailed do CA (Kruger và ctv., 1999).Các triệu chứng tốt nhất tài liệu của CI là mealiness = woolliness và leatheriness. Hoặc là hoạt flesh digresses trong CI, kết quả là ăn nói táo (Arana và ctv., 2007) hay len đào và xuân đào (Arana et al., 2007; Lurie và Crisosto, 2005), hoặc trái cây thiếu nước trái cây và có một kết cấu cứng, khô (leatheriness) (Lurie và Crisosto, 2005; Luza et al., 1992). Những thay đổi trong kết cấu thường trùng với, hoặc được tiếp theo, flesh hoặc hố khoang màu nâu và ở giai đoạn tiên tiến hơn, flesh mô tách, và khoang hình xảy ra (Lurie và Crisosto, 2005).
đang được dịch, vui lòng đợi..
