Việt Nam, một quốc gia với một khu vực kinh tế công và đang phát triển, đang trải qua một quá trình chuyển đổi kinh tế và nhân khẩu học. Trong lịch sử, đất nước đã theo đuổi các mục tiêu xã hội chủ nghĩa của việc đạt được bảo hiểm y tế toàn dân. Do đó, cơ sở hạ tầng y tế của nó bao gồm một phần rất lớn của người dân. Việt Nam cũng đã thiết lập một ví dụ cho thế giới về huy động dân số trong các chiến dịch nâng cao sức khỏe. Điều này là hiển nhiên trong loại trừ uốn ván và mở rộng Chương trình hoạt động tiêm chủng. Với sự giảm xuống đều tử vong mẹ, tử vong trẻ em suy dinh dưỡng và trong những thập kỷ qua, Việt Nam cũng đã vượt quá sự mong đợi đối với một nước thu nhập trung bình. Tuy nhiên, bằng chứng cho sự bất bình đẳng ngày càng tăng trong các kết quả y tế và công bằng trong y tế đã bắt đầu để có được sự chú ý trong những năm gần đây. Bộ Y tế Việt Nam đã ưu tiên bà mẹ và sức khỏe trẻ em trong những năm qua và đã có những nỗ lực để cải thiện sức khỏe của bà mẹ và trẻ em, nhưng ngay cả trong khu vực này bất bình đẳng rất lớn tồn tại. Trong một bài trước, chúng ta đã sử dụng dữ liệu từ các cuộc điều tra MICS3 tiến hành năm 2006 để báo cáo về những khác biệt trong việc sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ, đặc biệt là trong việc chăm sóc tiền sản và tham dự sinh có kỹ năng. Dữ liệu từ MICS4, được tiến hành trong giai đoạn 2010-2011, bây giờ đã có. Sự phát triển xã hội nhanh chóng đã diễn ra tại Việt Nam trong những năm gần đây làm cho nó quan trọng để kiểm tra những thay đổi trong khoảng cách công bằng liên quan đến chăm sóc tiền sản và giao hàng tại các cơ sở y tế. Mục đích của nghiên cứu này là để kiểm tra những thay đổi này.
đang được dịch, vui lòng đợi..
