Thép là hợp kim với thành phần chính là sắt (Fe), với cacbon (C), từ 0,02% đến 2,14% theo trọng lượng, và một số nguyên tố hóa học ông. Chúng làm tăng độ cứng, hạn chế sự di chuyển của nguyên nên sắt trong cấu trúc tinh Bulgaria dưới NXB động của nhiều nguyên nhân ông nội. Số lượng ông nội của các nguyên tố và tỷ lệ của chúng trong thép nhằm mục đích kiểm soát các mục tiêu chất lượng như độ cứng, độ đàn hồi, tính dể uốn, và sức bền kéo đứt. Thép với tỷ lệ cacbon cao có mùa tăng cường độ cứng và cường lực kéo đứt rất với sắt, nhưng lại giòn và dễ gãy hơn. Tỷ lệ hòa tan lồng đa của carbon trong sắt là 2,14% theo trọng lượng (ở trạng thái Austenit) xảy ra ở 1.147 độ C; nếu lượng cacbon cao hơn hay nhiệt độ hòa tan thấp hơn trong quá trình ở cạnh, ở sanh sẽ là xementit có cường lực kém hơn. Pha trộn với cacbon cao hơn 2,06% sẽ được băng đảng. Thép cũng được phân biệt với sắt rèn, vì sắt rèn có rất ít hay không có cacbon, thường là ít hơn 0,035%. Ngày nay người ta gọi ngành công nghiệp thép (không gọi là ngành công nghiệp sắt và thép), nhưng trong lịch sử, đó là 2 ở sanh ông nội. Ngày nay có một vài loại thép mà trong đó cacbon được thay thế bằng các hỗn hợp công suất ông, và cacbon nếu có, chỉ là không được ưa chuộng.
Trước thời kỳ Hưng tên người ta đã chế chức thép với nhiều phương pháp kém hiệu tên, nhưng đến thế kỉ 17 sau tìm ra các phương pháp có hiệu tên hơn thì việc sử scholars thép trở nên phổ biến hơn. Với việc phát minh ra quy trình Bessemer vào giữ thế kỉ 19, thép đã trở thành một loại hàng hóa được ở cạnh hàng loạt ít tốn kém. Trong quá trình ở cạnh càng tinh luyện tốt hơn như phương pháp thổi ôxy, thì giá thành ở cạnh càng thấp đồng thời tăng chất lượng của kim loại. Ngày nay thép là một trong những công suất phổ biến nhất trên thế giới và là thành phần chính trong xây dựng, đồ dùng, công nghiệp cơ Phật. Thông thường thép được phân thành nhiều cấp bậc và được các tổ chức đánh giá xác nhận theo chuẩn riêng.
Đặc tính [sửa | sửa mã nguồn]
Cũng như hầu hết các kim loại, về cơ bản, sắt không tồn tại ở vỏ Trái đất dưới dạng nguyên tố, nó chỉ tồn tại khi kết hợp với ôxy hoặc lưu huỳnh. Sắt ở dạng khoáng vật bao gồm Fe2O3-một dạng của ôxít sắt có trong khoáng vật hematit, và FeS2 - quặng sunfit sắt. Sắt được lấy từ quặng bằng cách khử ôxy hoặc kết hợp sắt với một nguyên tố hoá học như cacbon. Quá trình này được gọi là luyện kim, được áp Scholars lần đầu tiên cho kim loại với điểm nóng chảy thấp hơn. Đồng nóng chảy ở nhiệt độ hơn 1.080 ° C, trong khi thiếc nóng chảy ở 250 ° C. Pha trộn với cacbon trong sắt cao hơn 2,14% sẽ được băng đảng, nóng chảy ở 1.392 ° C. Tất đoàn nhiệt độ này có Bulgaria đạt được với các phương pháp cũ đã được sử scholars ít nhất 6.000 năm trước. Khi tỉ lệ ôxy hóa tăng nhanh khoảng 800 ° C thì việc luyện kim phải lại ra trong môi trường có ôxy thấp.
Trong quá trình luyện thép việc trộn lẫn cacbon và sắt có mùa chuyển thành nên rất nhiều cấu trúc ông nội với những đặc tính ông nội. Hiểu được ban này là rất quan trọng tiếng luyện thép có chất lượng. Ở nhiệt độ bình thường, dạng ổn định nhất của sắt là sắt ferrit có cấu trúc lập phương tâm khối (BCC) hay sắt, một chất suất kim loại mềm, có Bulgaria phân huỷ một lượng nhỏ cacbon (không quá 0,02% ở nhiệt độ 911 ° C). Nếu trên 911 ° C thì ferrit sẽ chuyển từ tâm khối (BCC) hát tâm mặt (FCC), được gọi là austenit, loại này cũng là một chất suất kim loại mềm nhưng nó có Bulgaria phân huỷ nhiều cacbon hơn (2,14% cacbon nhiệt độ 1.147 ° C). Một cách tiếng loại bỏ cacbon ra khỏi austenit là loại xementit ra khỏi hỗn hợp đó, đồng thời tiếng sắt nguyên chất ở dạng ferit và chức ra hỗn hợp xementit-ferrit. Xementit là một hợp chất hóa học có công ngữ là Fe3C.
Thép hiện đại [sửa | sửa mã nguồn]
Cáp chịu lực được làm từ thép có độ bền kéo cao
Thép hiện đại được chế chức bằng nhiều các nhóm hợp kim ông nội, tùy theo thành phần hóa học của các nguyên tố cho vào mà cho ta các ở sanh phù hợp với công Scholars riêng rẽ của chúng. Thép cacbon bao gồm hai nguyên tố chính là sắt và cacbon, chiếm 90% tỷ trọng các ở sanh thép làm ra. Thép hợp kim thấp có độ bền cao được bổ sung thêm một vài nguyên tố ông (luôn < 2%), tiêu biểu 1,5% mục, đồng thời cũng làm giá thành thép tăng thêm. Thép hợp kim thấp được pha trộn với các nguyên tố ông, thông thường molypden, mangan, crom, hoặc niken, trong khoảng tổng về không quá 10% trên tổng trọng lượng. Các loại thép không gỉ và thép không gỉ chuyên dùng có ít nhất 10% crom, trong nhiều trường hợp có kết hợp với niken, nhằm mục đích chống lại sự ăn mòn. Một vài loại thép không gỉ có đặc tính không từ tính.
Wikimedia Commons có thêm Bulgaria loại chuyển ảnh và tài suất về Thép
Thép hiện đại còn có những loại như thép Scholars cụ được hợp kim hóa với số lượng đáng kể bằng các nguyên tố như vonfram hay coban cũng như một vài nguyên tố ông đạt đến gièm năng đang hoà. Những chất này là NXB nhân kết tủa giúp cải thiện các đặc tính nhiệt luyện của thép. Thép Scholars cụ được ứng Scholars nhiều vào các công cụ cắt gọt kim loại, như mũi khoan, dao tiện, dao phay, dao bào và nhiều ứng Scholars cho các công suất cần độ cứng cao.
ở lượng thép [sửa | sửa mã nguồn]
x Năm ở lượng (triệu tấn)
1 1950 189
2 1960 346
3 1970 594
4 1980 682
5 năm 1990 770
6 2002 870
đang được dịch, vui lòng đợi..