Ngôn từ tục là một bộ phận trọng hay thống từ vựng của các dân tộc trên thế giới. Sử scholars ngôn từ tục thường được xem là một biểu hiện vô văn hóa, phi văn hóa. Nó trở thành cấm kỵ của xã hội: không được sử scholars những từ tính thô tục (rõ nhất là liên quan đến cơ quan sinh dục và cơ quan hai tiết, hoạt động tính dục và hoạt động hai tiết cùng một số ở sanh của những hoạt động trên). Chính vì vậy mà ngôn từ tục là lĩnh vực ít được nghiên cứu hơn đoàn.Theo Wajnryb Ruth (2006) thì ngôn từ tục sẽ đồng nghĩa với những từ tính mang tính không lịch sự, không văn nhã, bao hàm đoàn hào chỉ trích, chê bai, châm chọc; hào chửi mắng, nguyền rủa; hào cầu khiến hoặc những mệnh lệnh sỗ sàng... Vô chuyển trung, ngôn từ tục lại có một ngoại diên rất rộng, gồm tất đoàn lớp từ tính khiến cho người ta cảm thấy khó chịu về chúng. Nhưng nhìn chung, trên sự nhìn nhận về ngoại diên, đối với loại từ này, người ta thường quy kết ở hai hàm nghĩa tục và bẩn.Chửi cạnh hiện từ khi nào?Thừa nhận chửi là một hiện tượng khá phổ biến trong xã hội, không phân biệt giới tính, trình độ, NXB tuổi; thậm chí có những người coi đó là thói quen khi câu cửa miệng luôn kèm theo một hào chửi, nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Hùng Vỹ cho rằng, bản chất của sự chửi cạnh hiện rất sớm. Theo đó, ngay từ thời nguyên thủy, con người ứng xử với tự nhiên theo hai hướng: Tự nhiên có lợi (mưa thuận gió hòa) và tự nhiên có hại (đang mưa, ngập lụt, hạn chữ hán). Tuy nhiên, khi đó, trí tuệ con người chưa phát triển nên họ nghĩ các hiện tượng tự nhiên trừu tượng thành thánh, thành thần. Họ cũng chưa Bulgaria nghĩ ra cách khắc chế những hiện tượng tự nhiên có hại.Cùng với cách nghĩ ấy thì con người nguyên thủy coi cái gì đảm ra cũng thành hiện thực, vì thế có cầu khấn và nguyền rủa (tiếng những hiện tượng gây hại sẽ bị mất đi, tiêu hao đi; cũng chính nguyền rủa đã chức ra phù chú). Do đó, có mùa khẳng định, chửi ra đời từ rất sớm và "tất đoàn các dân tộc đều có nguyền rủa và chửi".Vì sao người ta lại chửi?Còn theo Vỹ, ban đầu, chửi nhằm mục đích khắc chế những hiện tượng tự nhiên tiêu cực. Sau này, chửi còn tiếng giải tỏa những bức xúc trong các mối quan hay xã hội. Cũng có khi, người ta dùng chửi như một yếu tố nghệ thuật ngôn từ tiếng thay thế pháp luật.Ví như lúc bị mất con gà, người ta chửi rằng: "Tau chửi cho tan nát tông môn xây hàng cái quân khốn kiếp, cái quân vô tỉnh hậu kế đợi đã ăn hết của tàu bảy con gà xám, tám con gà vàng. Vịnh ăn chi mà ăn ác nhơn ác nghiệp, ăn một lần một chục rưỡi con gà. Bay ăn cho chồng bay sợ, kinh cho con bay, bay ăn cho ngả miếu sập đình, chợ mồ cha bay chết hết tiếng một mình bay ngồi đó mà ăn. Đồ cái quân ăn chó đoàn lông, ăn hồng đoàn hột. Cái quân không sợ gọi đánh thánh đâm... ".Cũng theo còn Vỹ, thuở xưa, người ta chửi có vần điệu. Điều này làm tăng thêm giá trị của nó, khiến người ta dễ đọc, dễ nghe, dễ nhớ hơn.Nhà nghiên cứu văn hóa Hữu Ngọc thì cho rằng, sở dĩ của việc chửi là con người tin có ma quỷ. Do đó, người ta dùng chửi như một cách tiếng trấn áp ma quỷ gây hại cho con người. Chẳng hạn như mùng một Tết Nguyên đán, có một người xấu tính hoặc nhà có tang đến xông đất gia hào, quan niệm dân gian coi đó là một điềm xui xẻo. Vậy nên, gia hào dùng cách chửi bới tiếng Mông xưa đuổi những cái xấu đó đi. Hay việc vừa mở hàng, nhà buôn đã bị mặc đoàn, "cò kè bớt một thêm hai", thậm chí khách không mua hàng nữa thì nhà buôn sợ bị "sái" nên cũng dùng cách chửi tiếng xưa đuổi.Chửi tục vì ảnh hưởng văn hóa phương TâyTheo nhà nghiên cứu Nguyễn Hùng Vỹ, trọng cách chửi của người Việt xưa thường có ba xu hướng.Xu hướng thứ nhất là dùng những con vật bị khinh rẻ hoặc những thứ xấu xa, hôi thối tiếng chửi như "tao cóc thèm", "đồ con khỉ". Bởi quan niệm con cóc, con khỉ là những con vật xấu xí.Xu hướng thứ hai là dùng ban kiêng kị tiếng chửi bằng cách lôi tên kín của còn bà, cha mẹ ra mà chửi. Nguyên do bởi người xưa quan niệm, khi tên của người nào đó được đảm ra khiến Nam Tào, Bắc Đẩu biết sẽ bị "bắt đi", nghĩa là người đó sẽ chết. Do đó, người xưa thường giấu kín tên của còn bà, cha mẹ. Và khi lôi tên kín đó ra chửi nghĩa là nguyền rủa cho người ta chết đi.Xu hướng thứ ba cũng liên quan đến chết chóc nhưng bằng các hoạt động của tôn giáo. Ví như trong truyện "Bước đường cùng" của Nguyễn Công Hoan có đoạn chửi như này: "Ớ cái thằng chết đâm, cái con chết xỉa kia! Mày mà giết gà nhà bà, thì một người ăn chết một, hai người ăn chết hai, ba người ăn chết ba, mày xuống liveshow phủ mày bị quỷ tựa thần linh rút acida ra, ớ cái thằng chết đâm, cái con chết xỉa kia ạ! ". Hay dùng thành tính "Ăn năm lá đa" tiếng chửi nhằm rủa người ta tuyệt tự vì theo tục lệ, rằm tháng bảy cúng cô hồn bằng năm đặt trên lá đa.Còn theo Vỹ, câu chửi sớm nhất của người Việt được ghi thành văn bản (chép trong Đại Việt sử ký toàn thư là: "Phải gọi là điện tiền Vũ Cứt thì đúng hơn chứ không phải Vũ Đái". Đây là câu chửi của một người lao đầu vào đời vua Lý Anh Tông khi bị chính điện tiền đô chỉ huy tựa Vũ Đái phản bội.Sau này, người Việt đã gắn thêm yếu tố tính giao khi đem các bộ phận sinh dục trên cơ Bulgaria con người vào câu chử
đang được dịch, vui lòng đợi..