với ban đầu OD550 của 0,150 (nhóm G) chỉ đạt 45,7%, tiếp
theo nhóm H (38,6%) và nhóm I (33,8%).
Tuy nhiên, năng suất lipid (mg L1 day1
) của C. zofingiensis hoá
tured trong điều kiện hạn chế nitơ tăng với sự gia tăng
nồng độ tế bào ban đầu (Bảng 2). Năng suất lipid
(6,3 mg L1 day1
) thu được ở nhóm F (tế bào ban đầu dựng thấp nhất
centration) là thấp nhất trong số tất cả các nhóm. Các lipid cao
năng suất (22,3 mg L1 day1
) đã đạt được trong nhóm I (các
tế bào ban đầu cao nhất OD550 0.5), mặc dù hàm lượng lipid trong nhóm
tôi đã thấp hơn đạt được trong các nhóm khác (Bảng 2). Đây là
bởi vì các tế bào với nồng độ ban đầu cao hơn đạt tương đối
cao hơn thức trọng lượng khô (g L1
) (Bảng 2). Các kết quả của con- lipid
centrations (mg L1
) tương tự với những năng suất lipid
(mg L1 day1
) (Bảng 2).
Năng suất lipid (mg L1 day1
) quan sát trong nghiên cứu này,
trong khoảng 6,3-22,3 mg L1 day1
, tương tự như công bố
dữ liệu từ sinh vật khác được nuôi cấy dưới culti- quang tự dưỡng
vation trong nhà, chẳng hạn như, 8,08-50,0 mg L1 day1 cho C. emersonii
(Illman et al., 2000), 18,6-22,7 mg L1 day1 cho Tetraselmis sp.
(Huerlimann et al., 2010). Mặc dù năng suất lipid của C. zof-
ingiensis có thể đạt được một mức độ cao hơn nhiều 1380 mg L1 day1 un-
der điều kiện dị dưỡng (Liu et al., 2010), dị dưỡng
trồng là tốn kém cho nền văn hóa ngoài trời quy mô thương mại, kể từ khi
tăng trưởng đòi hỏi dị việc sử dụng đắt tiền đầy đủ kèm theo
đang được dịch, vui lòng đợi..
