3.2.5. Những người có nguy cơ nhiễm độc asen mạn tính
Các kết quả của cuộc khảo sát này cho thấy một vài triệu người của vùng đồng bằng sông Hồng được tiếp xúc với một nguy cơ ngộ độc asen mạn tính. Tuy nhiên, để tốt nhất của kiến thức của chúng tôi, chỉ có vài triệu chứng bệnh đã được chẩn đoán cho đến nay. Điều này có thể là do thực tế là trong
Việt Nam, nước nhiễm asen nước ngầm đã chỉ được sử dụng làm nước uống cho 7-10 năm qua.
Hơn nữa, những biểu hiện ban đầu của ngộ độc asen rất khó để chẩn đoán và phụ thuộc phần lớn vào nhận thức của các địa phương bác sĩ (Saha et al., 1999). Các tần số của dãy nồng độ cho thấy 25- 90% (trung bình = 48%, n = 196) hoặc 50-98% (trung bình = 72%, n = 196) của groundwaters tra vượt quá giới hạn asen 50 mg / L hoặc 10 mg / L, tương ứng.
Điều này có nghĩa rằng các khu vực Hà Nội và các khu vực có thể lớn hơn của vùng đồng bằng sông Hồng được như mạnh mẽ
ảnh hưởng như Bangladesh (27% so với 50 mg / L, n = 3534) (BGS và DPHE, 2001). Các nồng độ rất cao ở huyện D đặt ra câu hỏi tại sao không có ngộ độc asen đã được phát hiện cho đến nay. Kinh nghiệm cho thấy rằng có thể mất mười năm hoặc hơn trước khi các triệu chứng ngộ độc asen đầu trở nên rõ ràng. So với Bangla-
đang được dịch, vui lòng đợi..
