làm việc, hoặc làm việc để trả tiền cho một số lượng nhỏ hơn của giờ, dự kiến sẽ làm thêm nhà. Trong sự tôn trọng này, Việt Nam là duy nhất trong đó phụ nữ Việt Nam có tỷ lệ cao nhất của sự tham gia kinh tế trong số phụ nữ trong khu vực và chiếm một phần lớn của lực lượng lao động; 90 phần trăm của người đàn ông và 80 phần trăm phụ nữ đang hoạt động kinh tế (Liên Hiệp Quốc kinh tế và xã hội ủy ban cho Châu á và Thái Bình Dương, 1998). Ngoài ra, phụ nữ Việt Nam tham gia lực lượng lao động có xu hướng tiếp tục qua trình cuộc sống mà không có sự gián đoạn cho sinh đẻ hoặc nuôi con (Haub và phương Thi Thu hương, năm 2004).Quan điểm trao đổi tài nguyên lập luận rằng vợ/chồng với các khoản thu nhập thấp không thêm nhà. Trong điều khoản của quan điểm này, tài nguyên tương đối khoá, khoảng cách thu nhập giới tính ở Việt Nam dường như giảm nhanh chóng trong quá trình đổi mới. Theo cuộc điều tra mức sống 1992-93, thu nhập của phụ nữ là 69 phần trăm của nam giới (trích dẫn trong các tổ chức y tế thế giới, 1995). Năm 1998, thu hẹp khoảng cách lương giữa Nam và nữ 22 phần trăm (Châu á ngân hàng phát triển, 2002), và theo cuộc điều tra mức sống mới nhất vào năm 2002 khoảng cách rơi xuống chỉ có 15% (Việt Nam, văn phòng tổng Statistical, năm 2004).Quan hệ tư tưởng mối quan hệ phân chia công việc gia đình để giới tính vai trò Thái độ. Người đàn ông và phụ nữ với bình đẳng hơn thái độ sẽ có một bộ phận bình đẳng của hộ gia đình. Hệ tư tưởng giới tính của Việt Nam đã trải qua những thay đổi đáng kể trong thế kỷ qua. Trong lịch sử, xã hội Việt Nam đã được thống trị bởi hệ tư tưởng nho giáo. Theo tinh thần của Khổng giáo, phụ nữ đã được phụ thuộc vào người đàn ông, là con gái phụ thuộc vào người cha của họ, sau đó là vợ phụ thuộc vào chồng của họ, và cuối cùng là góa phụ phụ thuộc vào con trai của họ (bích, văn phạm, 1999; Que, Tran Thi, 1996). Tuy nhiên, trong thực tế, Khổng giáo tại Việt Nam xuất hiện một chút khác nhau từ hàng xóm lớn nhất của nó, Trung Quốc. Ngay cả trong thời kỳ thuộc địa, Pháp nhà quan sát đã viết hùng hồn về vị trí mạnh mẽ của các phụ nữ Việt Nam như trái ngược với phụ nữ Trung Quốc (Belanger et al. 2003; Frenier và Mancini, 1996; Woodside, 1971). Phụ nữ Việt Nam xuất hiện để có một vai trò quan trọng trong việc ra quyết định trong các lĩnh vực khác nhau, từ ngân sách gia đình, hôn nhân, để giáo dục trẻ em, cho thấy một bộ phận gia dụng hơn bình đẳng của lao động. Tuy nhiên, khi nói đến nhà, một nghiên cứu của một thị trấn công giáo chỉ ra rằng ông bố Việt Nam đã được tìm thấy để chia sẻ chỉ có 20 phần trăm các việc vặt trong nước (Houtrat và Lemercinier, 1984). Một nghiên cứu thực hiện vào năm 2001 trong năm tỉnh báo cáo rằng phụ nữ có xu hướng chủ yếu là có trách nhiệm trong nước làm việc và rằng không có chênh lệch tuổi tác trong mối quan hệ này là điều hiển nhiên, cho thấy rất ít thay đổi theo thời gian trong việc phân chia giới tính của gia đình lao động (bình, làm thị, Le Ngoc Van và Nguyễn Linh Khieu, 2002).Nhấn mạnh vào sự phân tầng giới tính kết quả từ một lịch sử lâu dài của Nam quyền kiểm soát tài nguyên là trung tâm của phương pháp tiếp cận xã hội chủ nghĩa-nữ quyền (Shelton và John, 1996). Quan điểm này cho một đơn vị bất bình đẳng của hộ gia đình làm việc là một phần của hệ thống giới tính phân tầng lớn hơn permeating tất cả các cấp của xã hội. Những người khác cho rằng chủ nghĩa tư bản, chứ không phải là patriarchy, trực tiếp liên quan đến bộ phận của hộ gia đình làm việc và rằng đó là yêu cầu của chủ nghĩa tư bản xác định áp bức của phụ nữ, như minh chứng bằng của bộ phận bất bình đẳng của hộ gia đình làm việc.Phụ nữ Việt Nam, nhà nước, và thay đổi xã hộiPhụ nữ Việt Nam đã đóng một vai trò trung tâm trong nỗ lực độc lập, lần đầu tiên từ Pháp và sau đó từ Hoa Kỳ, và phát triển nhà nước. Với hàng triệu người đàn ông huy động cho nỗ lực chiến tranh, phụ nữ vai rộng chưa từng có trách nhiệm cho việc duy trì sản xuất nông nghiệp và công nghiệp. Một số lớn của phụ nữ cũng tham gia trực tiếp vào cuộc chiến tranh (Liên Hiệp Quốc kinh tế và xã hội ủy ban cho Châu á và Thái Bình Dương, 1998). Từ Ban đầu phát triển nhà nước xã hội chủ nghĩa, bình đẳng giới là một mục tiêu trung tâm. Mục tiêu này được tuyên bố đầu tiên vào năm 1930, với việc thành lập Đảng Cộng sản của Đông Dương (Fahey, 1998). Mục đích là để thay thế tư tưởng truyền thống, dựa theo giới tính đó nhấn mạnh sự thống trị Nam và tỷ lệ thuộc (Croll, 1998). Bằng sự tham gia của phụ nữ được coi là rất quan trọng để phát triển nhà nước xã hội chủ nghĩa (bích, văn phạm, 1999). Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi
đang được dịch, vui lòng đợi..
