Lốc xoáy nhiệt đới có thể gây ra các thiệt hại đáng kể dọc theo 3 000 kmbờ biển của Việt Nam. Một cơn bão, tháng 10 năm 1985, là trách nhiệmsự mất mát của cuộc sống gần như 900, 3 300 tàu thuyền bị đánh chìm và hơn nửa triệunhững người đã được rendered vô gia cư. Trong khi đây là một cực kỳ đặc biệttác động, trên 400 000 ha cây trồng bị mất trong các tỉnh ven biểnViệt Nam là kết quả của cơn bão nhiệt đới tác động trong khoảng thời gian 10 năm1977Ð1986 (thứ năm, năm 1991). Bảo vệ dễ bị tổn thương khu vực ven biển khỏi bãotác động là, do đó, cao xã hội và kinh tế quan trọng. Tuy nhiên, trongmột quốc gia nơi mà nguồn tài nguyên có giới hạn, có thể bảo vệ đầy đủ a¤ordingchứng minh di¦cult ngay cả trong ngày nay (Wickramanayake, 1994). Từ mộtđến 12 bão một năm đã tiếp cận bờ biển Việt Nam trong thời gianthập kỷ gần đây (Kelly, 1996). Trong nhiều thập kỷ trong tương lai, các đặc tính nàynguy cơ có thể thay đổi là kết quả của sự nóng lên toàn cầu và có quan tâm mà cáctần số xuất hiện có thể tăng lên. Theo đánh giá thứ haiBáo cáo Panel liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC),khu vực thay đổi trong tần số cơn bão có thể xảy ra như là nhiệt độ đại dươngsự nổi lên và lưu thông khí quyển thay đổi (Lighthill et al., năm 1994; HoughtonCTV., 1996). Tuy nhiên, nhiều bất trắc và IPCC kết luậnrằng không có đánh giá Þrm có thể được thực hiện.Này không chắc chắn để lại ra quyết định ở một vị trí di¦cult. Không có Þrmđánh giá không có nghĩa rằng nguy cơ là tối thiểu, và nó là trong bản chất củasự kiện cực đoan rằng unpreparedness chính nó làm tăng tổn thương đáng kể.Có thể làm gì để lập kế hoạch cho một tương lai không chắc chắn? Những gì hiệnmột cách tiếp cận phòng ngừa để giảm khí hậu tác động gây? Kelly et al.(1994) tranh luận rằng một cách tiếp cận phòng ngừa để giảm thiểu tác động của khí hậu49(tiếp tục từ trang 49)Nguyễn Hoàng trí là với hệ sinh thái rừng ngập mặnBộ phận nghiên cứu, Trung tâm tài nguyên thiên nhiênQuản lý và nghiên cứu môi trường, Việt NamĐại học quốc gia, Hà Nội, Việt Nam; W. N.Adger và chiều Kelly với Trung tâm xã hộivà các nghiên cứu kinh tế môi trường toàn cầu,Đại học East Anglia và đại họcTrường đại học Luân Đôn, Vương Quốc Anh; P. M. Kelly cũng là vớiĐơn vị nghiên cứu khí hậu, đại học East Anglia,Norwich, Vương Quốc Anhvà thích ứng phải liên quan đến việc xác định ÔÔwinÐwinÕÕ tình huống trong đóhành động để giảm thiểu rủi ro trong tương lai cũng giảm thiểu tổn thương trong ngày nay:biến đổi khí hậu, các vấn đề môi trường khác, hoặc để xã hội vàkinh tế các mối đe dọa. Trong bài báo này, chúng ta xem xét một như vậy cách tiếp cận đến ven biểnbảo vệ mà phải mất lợi thế của một nguồn tài nguyên tự nhiên được tìm thấy dọc theo nhiềuđường bờ biển của Việt Nam, các hệ sinh thái rừng ngập mặn.Vùng đất ngập nước, chẳng hạn như rừng ngập mặn, bao gồm 6% của bề mặt đất worldÕsvà được tìm thấy trong tất cả khí hậu từ đài nguyên Bắc cực đến vùng nhiệt đới (Matthewsvà ông Phùng, năm 1987). Vùng đất ngập nước cung cấp cho con người trực tiếp và gián tiếpphạm vi của các hàng hoá và dịch vụ, bao gồm các loài cây lương thực, chăn thả màu mỡđất đai, hỗ trợ cho ven biển và vùng nội địa Þsheries, ßood kiểm soát, chăn nuôiSân vườn cho nhiều loài chim và nhiên liệu từ than bùn. Mặc dù là giữa cácHệ sinh thái hiệu quả nhất trên thế giới, khu vực toàn cầu của duyên hảirừng ngập mặn đã giảm thông qua chuyển đổi cho nông nghiệp,Lâm nghiệp và khu đô thị sử dụng, và do khai thác gỗ nhiên liệu, để cácmức độ nhiều lĩnh vực còn lại của signiÞcant đang được bảo vệ theo cácCông ước Ramsar. Đầm lầy ngập mặn, chủ yếu là 60 loàirừng ngập mặn cây, là triều đất ngập nước ven biển nhiệt đới và cận nhiệt đới(thường được tìm thấy giữa 25¡N và 25¡S). Ở Việt Nam, các khu vực rộng lớn của rừng ngập mặnđã được chuyển đến nông nghiệp, và đặc biệt, cho tômnuôi trồng thủy sản, gây nhiễu loạn sinh thái và tăng cường sự bất ổn trongmôi trường ven biển, vật lý, so sánh với tình hình đó chiếm ưu thếdưới rừng ngập mặn lớn (Hồng và San, 1993). Nhiều nuôi trồng thủy sảnthực tiễn có thể vốn không bền vững; Xem critiques được trình bày bởiFolke và Kautsky (1992) và Kelly (1996).Các chức năng khác nhau và các dịch vụ được cung cấp bởi khu vực rừng ngập mặn cóđược ghi nhận và thẩm định (Lugo và Snedaker, 1974; Mitsch vàGosselink, 1993; Reimold, 1994). Nó cũng đã được công nhận trong kinh tếphân tích các chức năng và dịch vụ cung cấp bởi rừng ngập mặn, vàvùng đất ngập nước nói chung, có giá trị kinh tế tích cực và rằng đây là những thườngbỏ qua trong quá trình liên tục chuyển đổi rừng ngập mặn (Farber vàCostanza, năm 1987; Barbier, 1993; Ruitenbeek, năm 1994; Nuốt, năm 1994; Costanzaet al., 1997). Vùng đầm lầy ngập mặn Hiển thị các tính năng của các hàng hoá công cộng trongsử dụng của họ là không độc quyền, và họ sẽ được chuyển đổi để sử dụng khácbởi vì các chức năng được giá thấp. Thường xuyên chuyển đổi rừng ngập mặndiễn ra thông qua trọng truyền thống thường gặp quản lý của cáctài nguyên (Walters, 1994). IdentiÞcation chức năng và các dịch vụvà sự kết hợp của các thành chính sách và sự khuyến khích củaquyền thích hợp, cho dù chung hay riêng,, do đó,cần thiết Þrst bước trong việc thúc đẩy bền vững ut
đang được dịch, vui lòng đợi..
