Chapter 2From an Industrial PolicyApproach to an IndustrialCluster App dịch - Chapter 2From an Industrial PolicyApproach to an IndustrialCluster App Việt làm thế nào để nói

Chapter 2From an Industrial PolicyA

Chapter 2
From an Industrial Policy
Approach to an Industrial
Cluster Approach: Japan,
East Asia and Silicon Valley
2.1 Introduction
Akira Suehiro
This chapter aims to clarify the two different policy frameworks for
industrial development in Japan and East Asian countries. The first
framework is an industrial policy approach, which was adopted by
Japan’s Ministry of International Trade and Industry (MITI) from
the 1950s to the 1980s, and was followed by the East Asian Newly
Industrializing Countries or East Asian NICs such as South Korea
and Taiwan since the latter part of 1960s. The key concept of this
approach is ‘international competitiveness’ in terms of export performance
of manufactured
goods in the world market. Another
framework
is an
industrial cluster approach,
which became more
important
among East Asian countries including ASEAN members
after
the 1990s. When the currency
crisis attacked East Asian countries
in 1997, a group
of economists from
the World
Bank
principally
proposed
the industrial cluster approach
based on the
key
concept of ‘innovation’ in order
to activate and revitalise
the
industrial
sector in the area.
On the other hand, at the moment of
the
currency
crisis, the Japanese government
proposed
to the crisishit
countries the more
conventional approach
of improving
and
upgrading
‘international
competitiveness’ of export-oriented
industries.
25
b768_Chapter-02.qxd 5/27/2009 4:29 PM Page 26
26 A. Suehiro
What are the differences between the two approaches in terms of
policy objectives, methodology, agents or players, the sources of
financing and international economic environments? What are the
differences between the two approaches in policy transferability and
their policy effects? To answer these questions, the author of this
chapter, at first, will make a comparison between the catch-up type
industrialisation model on the basis of Japan’s experience and Michael
Porter’s Diamond model on the basis of Silicon Valley in the United
States. And then he will use the cases of Japan, South Korea, Taiwan
and Thailand as examples to clarify the difference between two
approaches.
The chapter consists of six parts including this introductory
section. In Section 2 the author will try to provide a comparison of two
major models as mentioned above. Section 3 is a major part of the
paper and the author aims at providing an analytical framework
to grasp the characteristics of the two approaches. More concretely, he
will introduce two major models (industrial policy model and industrial
cluster model) and three
sub-models in industrial cluster approach
(sanchi-type,
export
processing
zone or EPZ-type, and Silicon Valleytype)
in reference
to major characteristics, principal promoters
and
players,
type of business, and policy measurements.
In Section 4, the author will explain in more detail Japan’s industrial
policy by taking the case of the promotion
of the tool machine
industry
between the 1950s and 1980s as an example. This policy
seems
to become the prototype
of the industrial policy approach
for
the
East Asian NICs in the sense that the government
played an active
role
in formulating
a master plan, providing
policy loans (fiscal investment
and loans), and coordinating
relations
between the government
and
the private sector.
In Section 5, he will summarise the experiences
of
East Asian countries in relation
to policies of promoting
strategic
industries
in Korea,
Taiwan
and Thailand during the 1960s and the
1980s,
together with de
facto
industrial cluster under the initiative of
multinational corporations or MNCs in Thai automobile industry. In
Section 6, or concluding part, the author will suggest both possibility
and limitation of industrial cluster model in the context of the
East Asian economies.
b768_Chapter-02.qxd 5/27/2009 4:29 PM Page 27
2.2 Catch-up Type Industrialisation Model
and Diamond Model
2.2.1 Late Comer Model in Industrialisation
Generally speaking, the government in a developing country or a late
comer in terms of the stage of economic development is required to
play a more active role in industrial promotion than a front runner.
The government formulates national economic development plans
and promotes particular industries as strategic ones to accelerate the
process of industrialisation.
As a consequence, the role of government
inevitably becomes a prime promoter and a conductor of industrial
promotion. Theoretical explanation can be done by employing the
stage development model of industrialisation (see Figure 2.1, Suehiro
2008, 130).
1
When a developing country tackles industrialisation, three
possible strategies present themselves: (1) export primary products
and import industrial goods; (2) launch domestic production of
industrial goods formerly imported (import substitution industrialisation);
(3)
export industrial goods manufactured domestically
(outward-looking industrialisation; export-oriented industrialisation)
(Chenery
and Srinivasan 1989, volume 2, sections 29–31).
Looking
at the experiences of Japan and other East Asian NICs,
most
of the countries or region
followed the process
of starting
with
the
export
of primary
products,
then shifts from
imports
to domestic
production
to exports
in labour-intensive
industries, before
moving
to import
and export
substitution — first in labour-intensive
industries, then in capital-intensive industries, and finally in
technology-intensive
industries (Suehiro,
2008). This of course is
essentially
the same process
as that posited by Kaname Akamatsu in
his
theory
of the so-called ‘wild-geese-flying pattern’
(Akamatsu,
1962).
1
2
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Việt) 1: [Sao chép]
Sao chép!
Chương 2
từ an công nghiệp chính sách
cách tiếp cận để một công nghiệp
cụm phương pháp tiếp cận: Nhật bản,
đông á và thung lũng Silicon
2.1 giới thiệu
Akira Suehiro
chương này nhằm mục đích làm rõ các khuôn khổ chính sách khác nhau hai cho
phát triển công nghiệp tại quốc gia Nhật bản và đông á. Người đầu tiên
khuôn khổ là một cách tiếp cận chính sách công nghiệp, đã được thông qua bởi
Nhật bản của bộ thương mại quốc tế và công nghiệp (MITI) từ
thập niên 1950 tới thập niên 1980, và được tiếp nối bởi đông á vừa được
công nghiệp quốc gia hoặc đông á NIC chẳng hạn như hàn
và Đài Loan từ phần sau của những năm 1960. Khái niệm quan trọng này
phương pháp tiếp cận là 'khả năng cạnh tranh quốc tế' trong điều khoản của xuất khẩu hiệu suất
của sản xuất
hàng hoá trong thị trường thế giới. Một
khuôn khổ
là một
cụm công nghiệp phương pháp tiếp cận,
mà trở nên giống
quan trọng
giữa các quốc gia đông á, bao gồm các thành viên ASEAN
sau khi
thập niên 1990. Khi các loại tiền tệ
tấn công khủng hoảng quốc gia đông á
vào năm 1997, một nhóm
của nhà kinh tế từ
thế giới
ngân hàng
chủ yếu
đề xuất
cụm công nghiệp phương pháp tiếp cận
dựa trên các
phím
khái niệm về 'sáng tạo' theo thứ tự
để kích hoạt và revitalise
các
công nghiệp
khu vực kinh tế trong khu vực.
mặt khác, tại thời điểm
các
thu
khủng hoảng, chính phủ Nhật bản
đề xuất
để crisishit
quốc gia hơn
cách tiếp cận thông thường
cải thiện

nâng cấp
' quốc tế
cạnh tranh của xuất khẩu theo định hướng
ngành công nghiệp.
25
b768_Chapter-02.qxd 5/27/2009 4:29 chiều trang 26
26 A. Suehiro
sự khác biệt giữa hai phương pháp về
mục tiêu chính sách, phương pháp, đại lý hoặc người chơi, các nguồn của
môi trường kinh tế tài chính và quốc tế? Những gì các
sự khác biệt giữa hai phương pháp tiếp cận trong chính sách chuyển nhượng và
hiệu ứng chính sách của họ? Để trả lời những câu hỏi, tác giả này
chương, lúc đầu tiên, sẽ làm một so sánh giữa các loại catch-up
công nghiệp hoá mô hình trên cơ sở kinh nghiệm của Nhật bản và Michael
Porter mô hình kim cương trên cơ sở của thung lũng Silicon ở Hoa
Kỳ. Và sau đó ông sẽ sử dụng các trường hợp của Nhật bản, Hàn Quốc, Đài Loan
và Thái Lan như là ví dụ để làm rõ sự khác biệt giữa hai
phương pháp tiếp cận.
chương bao gồm sáu phần bao gồm giới thiệu này
phần. Trong phần 2 tác giả sẽ cố gắng cung cấp một so sánh hai
chính mô hình như đã đề cập ở trên. Phần 3 là một phần quan trọng trong các
giấy và các tác giả nhằm mục đích cung cấp một khuôn khổ phân tích
để nắm bắt các đặc tính của hai phương pháp. Cụ thể hơn, ông
sẽ giới thiệu hai mô hình lớn (mô hình chính sách công nghiệp và công nghiệp
cụm mô hình) và ba
Các mô hình phụ trong cụm công nghiệp cách tiếp cận
(sanchi-loại,
xuất khẩu
xử lý
khu vực hoặc KCX-loại, và silic Valleytype)
trong tài liệu tham khảo
đến đặc tính lớn, quảng bá chính

người chơi,
loại kinh doanh, và chính sách đo đạc.
trong phần 4, tác giả sẽ giải thích chi tiết hơn Nhật bản của công nghiệp
các chính sách bằng cách tham gia trường hợp của quảng cáo
của máy công cụ
ngành công nghiệp
giữa thập niên 1950 và thập niên 1980 như là một ví dụ. Chính sách này
có vẻ
trở thành chiếc nguyên mẫu
của cách tiếp cận chính sách công nghiệp
cho
các
đông á NIC trong ý nghĩa mà chính phủ
chơi đang hoạt động
vai trò
trong xây dựng
một bậc thầy kế hoạch, cung cấp
chính sách cho vay (đầu tư tài chính
và cho vay), và phối hợp
quan hệ
giữa chính phủ

khu vực tư nhân.
trong phần 5, ông sẽ tóm tắt những kinh nghiệm
của
các quốc gia đông á liên quan
với chính sách của việc thúc đẩy
chiến lược
ngành công nghiệp
tại Hàn Quốc,
Đài Loan
và Thái Lan trong thập niên 1960 và
thập niên 1980,
cùng với de
facto
cụm công nghiệp theo sáng kiến của
đa quốc gia tập đoàn hoặc ty đa quốc gia trong ngành công nghiệp ô tô Thái. Ở
phần 6, hoặc kết thúc một phần, tác giả sẽ đề nghị khả năng cả hai
và hạn chế của mô hình cụm công nghiệp trong bối cảnh các
nền kinh tế Đông á.
b768_Chapter-02.qxd 5/27/2009 4:29 chiều trang 27
3.5 Catch-up kiểu công nghiệp hoá
và mô hình kim cương
2.2.1 muộn Comer mô hình công nghiệp hoá
nói chung, chính phủ trong một quốc gia đang phát triển hoặc một cuối
comer trong điều khoản của giai đoạn phát triển kinh tế là cần thiết để
đóng một vai trò tích cực hơn trong công nghiệp thúc đẩy hơn một á hậu phía trước.
chính quyền lập kế hoạch phát triển kinh tế quốc gia
và thúc đẩy ngành công nghiệp cụ thể như là những chiến lược để tăng tốc các
quá trình của công nghiệp hoá.
như là một hệ quả, vai trò của chính phủ
chắc chắn sẽ trở thành một promoter nguyên tố và một dẫn công nghiệp
khuyến mãi. Giải thích lý thuyết có thể được thực hiện bằng cách sử dụng các
giai đoạn phát triển mô hình của công nghiệp hoá (xem hình 2.1, Suehiro
2008, 130).
1
khi một quốc gia đang phát triển bóng công nghiệp hoá, ba
chiến lược có thể hiện nay chính họ: (1) xuất khẩu sản phẩm chính
và nhập khẩu hàng hoá công nghiệp; (2) sản xuất trong nước khởi động của
nghiệp trước đây nhập khẩu (nhập khẩu thay thế công);
(3)
xuất khẩu hàng công nghiệp sản xuất trong nước
(công nghiệp hoá ra nước ngoài, tìm kiếm; công nghiệp hoá theo định hướng xuất khẩu)
(Chenery
and Srinivasan 1989, volume 2, sections 29–31).
Looking
lúc những kinh nghiệm của Nhật bản và khác NIC đông á,
đặt
của quốc gia hoặc khu vực
theo trình
bắt đầu
với
các
xuất khẩu
của chính
sản phẩm,
sau đó thay đổi từ
nhập khẩu
trong nước đến
sản xuất
để xuất khẩu
trong lao động chuyên sâu
ngành công nghiệp, trước khi
di chuyển
để nhập
và xuất khẩu
thay thế — lần đầu tiên trong lao động chuyên sâu
ngành công nghiệp, sau đó trong ngành công nghiệp capital-intensive, và cuối cùng trong
công nghệ chuyên sâu
ngành công nghiệp (Suehiro,
2008). Điều này tất nhiên là
cơ bản
quá trình
như Ấn định bởi Kaname Akamatsu ở
mình
lý thuyết
của cái gọi là 'mô hình tự nhiên ngỗng bay'
(Akamatsu,
1962).
1
2
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Việt) 2:[Sao chép]
Sao chép!
Chapter 2
From an Industrial Policy
Approach to an Industrial
Cluster Approach: Japan,
East Asia and Silicon Valley
2.1 Introduction
Akira Suehiro
This chapter aims to clarify the two different policy frameworks for
industrial development in Japan and East Asian countries. The first
framework is an industrial policy approach, which was adopted by
Japan’s Ministry of International Trade and Industry (MITI) from
the 1950s to the 1980s, and was followed by the East Asian Newly
Industrializing Countries or East Asian NICs such as South Korea
and Taiwan since the latter part of 1960s. The key concept of this
approach is ‘international competitiveness’ in terms of export performance
of manufactured
goods in the world market. Another
framework
is an
industrial cluster approach,
which became more
important
among East Asian countries including ASEAN members
after
the 1990s. When the currency
crisis attacked East Asian countries
in 1997, a group
of economists from
the World
Bank
principally
proposed
the industrial cluster approach
based on the
key
concept of ‘innovation’ in order
to activate and revitalise
the
industrial
sector in the area.
On the other hand, at the moment of
the
currency
crisis, the Japanese government
proposed
to the crisishit
countries the more
conventional approach
of improving
and
upgrading
‘international
competitiveness’ of export-oriented
industries.
25
b768_Chapter-02.qxd 5/27/2009 4:29 PM Page 26
26 A. Suehiro
What are the differences between the two approaches in terms of
policy objectives, methodology, agents or players, the sources of
financing and international economic environments? What are the
differences between the two approaches in policy transferability and
their policy effects? To answer these questions, the author of this
chapter, at first, will make a comparison between the catch-up type
industrialisation model on the basis of Japan’s experience and Michael
Porter’s Diamond model on the basis of Silicon Valley in the United
States. And then he will use the cases of Japan, South Korea, Taiwan
and Thailand as examples to clarify the difference between two
approaches.
The chapter consists of six parts including this introductory
section. In Section 2 the author will try to provide a comparison of two
major models as mentioned above. Section 3 is a major part of the
paper and the author aims at providing an analytical framework
to grasp the characteristics of the two approaches. More concretely, he
will introduce two major models (industrial policy model and industrial
cluster model) and three
sub-models in industrial cluster approach
(sanchi-type,
export
processing
zone or EPZ-type, and Silicon Valleytype)
in reference
to major characteristics, principal promoters
and
players,
type of business, and policy measurements.
In Section 4, the author will explain in more detail Japan’s industrial
policy by taking the case of the promotion
of the tool machine
industry
between the 1950s and 1980s as an example. This policy
seems
to become the prototype
of the industrial policy approach
for
the
East Asian NICs in the sense that the government
played an active
role
in formulating
a master plan, providing
policy loans (fiscal investment
and loans), and coordinating
relations
between the government
and
the private sector.
In Section 5, he will summarise the experiences
of
East Asian countries in relation
to policies of promoting
strategic
industries
in Korea,
Taiwan
and Thailand during the 1960s and the
1980s,
together with de
facto
industrial cluster under the initiative of
multinational corporations or MNCs in Thai automobile industry. In
Section 6, or concluding part, the author will suggest both possibility
and limitation of industrial cluster model in the context of the
East Asian economies.
b768_Chapter-02.qxd 5/27/2009 4:29 PM Page 27
2.2 Catch-up Type Industrialisation Model
and Diamond Model
2.2.1 Late Comer Model in Industrialisation
Generally speaking, the government in a developing country or a late
comer in terms of the stage of economic development is required to
play a more active role in industrial promotion than a front runner.
The government formulates national economic development plans
and promotes particular industries as strategic ones to accelerate the
process of industrialisation.
As a consequence, the role of government
inevitably becomes a prime promoter and a conductor of industrial
promotion. Theoretical explanation can be done by employing the
stage development model of industrialisation (see Figure 2.1, Suehiro
2008, 130).
1
When a developing country tackles industrialisation, three
possible strategies present themselves: (1) export primary products
and import industrial goods; (2) launch domestic production of
industrial goods formerly imported (import substitution industrialisation);
(3)
export industrial goods manufactured domestically
(outward-looking industrialisation; export-oriented industrialisation)
(Chenery
and Srinivasan 1989, volume 2, sections 29–31).
Looking
at the experiences of Japan and other East Asian NICs,
most
of the countries or region
followed the process
of starting
with
the
export
of primary
products,
then shifts from
imports
to domestic
production
to exports
in labour-intensive
industries, before
moving
to import
and export
substitution — first in labour-intensive
industries, then in capital-intensive industries, and finally in
technology-intensive
industries (Suehiro,
2008). This of course is
essentially
the same process
as that posited by Kaname Akamatsu in
his
theory
of the so-called ‘wild-geese-flying pattern’
(Akamatsu,
1962).
1
2
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2024 I Love Translation. All reserved.

E-mail: