Tên gọiTên gọi Hội An ngày nay được hình thành từ rất lâu trong lịch s dịch - Tên gọiTên gọi Hội An ngày nay được hình thành từ rất lâu trong lịch s Việt làm thế nào để nói

Tên gọiTên gọi Hội An ngày nay được

Tên gọi
Tên gọi Hội An ngày nay được hình thành từ rất lâu trong lịch sử, nhưng thật khó có thể xác định chính xác thời điểm ra đời của nó. Theo tác giả Dương Văn An trong cuốn sách Ô Châu cận lục, vào năm 1553, huyện Điện Bàn có 66 xã, trong đó có các xã Hoài Phô, Cẩm Phô, Lai Nghi, nhưng chưa thấy cái tên Hội An được ghi lại. Dưới thời Lê, tấm bản đồ do đại thần Đỗ Bá vẽ in trong Thiên Nam tứ chí lộ đồ có ghi lần đầu tiên các địa danh Hội An phố, Hội An đàm, Hội An kiều. Trên tấm bia Phổ Đà Linh Sơn Trung Phật tại động Hoa Nghiêm, Ngũ Hành Sơn ghi tên những người góp tiền xây dựng chùa, tên làng Hội An được nhắc tới ba lần. Thời chúa Nguyễn Phúc Lan, làng Minh Hương được thành lập bên cạnh làng Hội An đã có trước đó. Căn cứ vào văn bản của dinh trấn Quảng Nam thời Minh Mạng gửi trưởng bang Hoa kiều, Hội An phố gồm 6 làng: Hội An, Minh Hương, Cổ Trai, Đông An, Diêm Hộ, Hoa Phô. Nhà nghiên cứu người Pháp Albert Sallet cho rằng làng Hội An là làng quan trọng nhất trong năm làng tạo nên quần cư Hội An cổ, gồm Hội An, Cẩm Phô, Phong Niên, Minh Hương và An Thọ.

Người phương Tây xưa kia gọi Hội An bằng cái tên Faifo. Xuất xứ của cái tên này ngày nay vẫn tồn tại nhiều giả thuyết. Trong cuốn Từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes in tại Roma năm 1651, chữ Hoài phô được định nghĩa: một làng trong xứ Cochinchine mà người Nhật ở và gọi là Faifo. Một giả thuyết phổ biến cho rằng Faifo xuất phát từ tên Hội An phố, cái tên sử sách và địa chí Trung, Việt đều nhắc tới. Theo một thuyết khác, sông Thu Bồn trước kia có tên là sông Hoài, nên Hội An còn được gọi là Hoài Phố, sau Hoài Phố biến thành Phai Phố, từ đó xuất hiện cái tên Faifo. Trong những thư từ, ghi chép của những giáo sĩ, học giả phương Tây, những cái tên Faifo, Faifoo, Fayfoo, Faiso, Facfo... từng xuất hiện nhiều lần. Alexandre de Rhodes trong bản đồ An Nam gồm Đàng Trong và Đàng Ngoài ấn hành năm 1651 có ghi rõ tên Haifo. Về sau, trên bản đồ chính thức của chính quyền Đông Dương, người Pháp đều sử dụng tên Faifo để chỉ Hội An.

Thời kỳ tiền Hội An

Bến Hội An
Khu đô thị cổ Hội An nằm gần cửa sông Thu Bồn, con sông lớn nhất của tỉnh Quảng Nam. Mặc dù vậy, ngày nay từ trung tâm thành phố tới đến cửa sông cũng không còn gần lắm. Hạ lưu sông Thu Bồn khi đổ ra biển Đông được chia thành nhiều nhánh. Nhánh tiếp xúc với khu phố cổ mang tên sông Hội An, còn dòng chảy giữa hai cồn Cẩm Nam và Cẩm Kim là dòng chính của sông Thu Bồn. Trên những bản đồ cổ thế kỷ 17, 18, Hội An nằm trên bờ Bắc của sông Thu Bồn, thông với biển Đông bẳng cửa Đại Chiêm và một dòng sông nối với cửa Đại của Đà Nẵng, phía ngoài là một doi cát rộng. Dấu vết dòng sông nối liền Hội An với biển Cửa Hàn có thể xác định là con sông Cổ Cò - Đế Võng ngày nay. Trên thủy trình cổ này đã từng tìm thấy nhiều lô tàu, mỏ neo bị chôn vùi trong lòng đất.

Tuy địa danh "Hội An" được cho rằng xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ 16, nhưng vùng đất xung quanh đô thị này đã có một lịch sử rất lâu đời. Trong suốt thời kỳ "tiền Hội An", nơi đây từng tồn tại hai nền văn hóa lớn, đó là văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Chăm Pa. Di chỉ đầu tiên của văn hóa Sa Huỳnh là phố Sa huỳnh ở Quảng Ngãi bị cát vùi lấp, được các nhà khảo cổ người Pháp phát hiện. Năm 1937, nữ học giả Madeleine Colani chính thức xác nhận đây là một nền văn hóa. Chỉ riêng trong khu vực thành phố Hội An đã phát hiện được hơn 50 địa điểm là di tích của nền văn hóa này, phần lớn tập trung ở những cồn cát ven sông Thu Bồn cũ. Đặc biệt, sự phát hiện hai loại tiền đồng Trung Quốc thời Hán, những hiện vật sắt kiểu Tây Hán... đã minh chứng ngay từ đầu Công nguyên, nơi đây đã bắt đầu có những giao dịch ngoại thương. Một đặc điểm khác có thể nhận thấy là khu vực Hội An không có những dấu tích của thời kỳ đầu và giữa, nhưng mảnh đất nơi đây đã từng tồn tại và có sự phát triển rực rỡ nền văn hóa Sa Huỳnh muộn.

Tiếp sau nền văn hóa Sa Huỳnh, suốt từ thế kỷ 2 đến đến thế kỷ 15, một dải đất miền trung Việt Nam nằm dưới sự thống trị của vương quốc Chăm Pa. Những di tích đặc trưng của nền văn hóa này là các nhóm điện thờ đạo Hindu phân bổ dọc từ miền Trung tới miền Nam, và một trong những trung tâm đó nằm ở lưu vực con sông Thu Bồn. Ở đây, có thể thấy một thủ phủ mang tính chính trị tại Trà Kiệu và một trung trung tâm mang tính tôn giáo nằm tại Mỹ Sơn. Những dấu tích đền tháp Chăm còn lại, những giếng nước Chăm, những pho tượng Chăm, những di vật của người Đại Việt, Trung Hoa, Trung Đông thế kỷ 2 - 14 làm sáng tỏ giả thuyết nơi đây từng có một Lâm Ấp Phố với một cảng biển là Đại Chiêm phát triển hưng thịnh. Nhiều thư tịch cổ ghi nhận trong một thời gian khá dài, Chiêm cảng - Lâm Ấp Phố đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo nên sự phồn vinh của kinh thành Trà Kiệu và khu di tích đền tháp Mỹ Sơn. Trải qua nhiều cuộc chiến tranh, vương quốc Chăm Pa bị Đại Việt đẩy dần về phía Nam. Năm 1471, thủ phủ cuối cùng của Chăm Pa ở Bầu Giá, Bình Định ngày nay, bị nhà Lê chiếm.
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Việt) 1: [Sao chép]
Sao chép!
Tên gọiTên gọi Hội An ngày nay được chuyển thành từ rất lâu trong lịch sử, nhưng thật khó có mùa xác định chính xác thời điểm ra đời của nó. Theo NXB giả Dương Văn An trong cuốn sách Ô Châu cận lục, vào năm 1553, huyện Điện Bàn có 66 xã, trong đó có các xã Hoài Phô, Cẩm Phô, Lai Nghi, nhưng chưa thấy cái tên Hội An được ghi lại. Dưới thời Lê, tấm bản đồ do đại thần Đỗ Bá vẽ ở trong Thiên Nam tứ chí lộ đồ có ghi lần đầu tiên các địa danh Hội An phố, Hội An đàm, Hội An kiều. Trên tấm bia Phổ Đà Linh Sơn Trung Phật tại động Hoa Nghiêm, thếp Hành Sơn ghi tên những người góp tiền xây dựng chùa, tên làng Hội An được nhắc tới ba lần. Thời chúa Nguyễn Phúc Lan, làng Minh Hương được thành lập bên cạnh làng Hội An đã có trước đó. Căn cứ vào văn bản của dinh trấn Quảng Nam thời Minh Mạng gửi trưởng bang Hoa kiều, Hội An phố gồm 6 làng: Hội An, Minh Hương, Cổ Trai, Đông An, Diệm Hộ, Hoa Phô. Nhà nghiên cứu người Pháp Albert Sallet cho rằng làng Hội An là làng quan trọng nhất trong năm làng chức nên quần cư Hội An cổ, gồm Hội An, Cẩm Phô, Phong Niên, Minh Hương và An Thọ.Người phương Tây xưa kia gọi Hội An bằng cái tên Faifo. Cạnh xứ của cái tên này ngày nay vẫn tồn tại nhiều giả thuyết. Trong cuốn Từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes trong tại Roma năm 1651, chữ Hoài phô được định nghĩa: một làng trong xứ Cochinchine mà người Nhật ở và gọi là Faifo. Một giả thuyết phổ biến cho rằng Faifo cạnh phát từ tên Hội An phố, cái tên sử sách và địa chí Trung, Việt đều nhắc tới. Theo một thuyết Micae, sông Thu Bồn trước kia có tên là sông Hoài, nên Hội An còn được gọi là Hoài Phố, sau Hoài Phố biến thành Phai Phố, từ đó cạnh hiện cái tên Faifo. Trong những thư từ, ghi chép của những giáo người, học giả phương Tây, những cái tên Faifo, Faifoo, Fayfoo, Faiso, Facfo... phần cạnh hiện nhiều lần. Alexandre de Rhodes trong bản đồ An Nam gồm Đàng trọng và Đàng Ngoài ấn hành năm 1651 có ghi rõ tên Haifo. Về sau, trên bản đồ chính ngữ của chính quyền Đông Dương, người Pháp đều sử scholars tên Faifo tiếng chỉ Hội An.Thời kỳ tiền Hội AnBến Hội AnKhu đô thị cổ Hội An nằm gần cửa sông Thu Bồn, con sông lớn nhất của tỉnh Quảng Nam. Mặc dù vậy, ngày nay từ trung tâm thành phố tới đến cửa sông cũng không còn gần lắm. Hạ lưu sông Thu Bồn khi đổ ra dưới Đông được chia thành nhiều nhánh. Nhánh truyện xúc với khu phố cổ mang tên sông Hội An, còn dòng chảy giữa hai cồn Cẩm Nam và Cẩm Kim là dòng chính của sông Thu Bồn. Trên những bản đồ cổ thế kỷ 17, 18, Hội An nằm trên bờ Bắc của sông Thu Bồn, thông với dưới Đông bẳng cửa Đại Chiêm và một dòng sông nối với cửa Đại của Đà Nẵng , phía ngoài là một doi cát rộng. Dấu vết dòng sông nối liền Hội An với dưới Cửa Hàn có mùa xác định là con sông Cổ Cò - Đế Võng ngày nay. Trên thủy trình cổ này đã phần tìm thấy nhiều lô tàu, mỏ neo bị chôn vùi trong lòng đất.Tuy địa danh "Hội An" được cho rằng cạnh hiện vào khoảng cuối thế kỷ 16, nhưng vùng đất xung quanh đô thị này đã có một lịch sử rất lâu đời. Trong suốt thời kỳ "tiền Hội An", nơi đây phần tồn tại hai nền văn hóa lớn, đó là văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Chăm Pa. Di chỉ đầu tiên của văn hóa Sa Huỳnh là phố Sa huỳnh ở Quảng Ngãi bị cát vùi lấp, được các nhà khảo cổ người Pháp phát hiện. Năm 1937, nữ học giả Madeleine Colani chính ngữ xác nhận đây là một nền văn hóa. Chỉ riêng trong khu vực thành phố Hội An đã phát hiện được hơn 50 địa điểm là di tích của nền văn hóa này, phần lớn tổ trung ở những cồn cát ven sông Thu Bồn cũ. Đặc biệt, sự phát hiện hai loại tiền đồng Trung Quốc thời chữ Hán, những hiện vật sắt kiểu Tây chữ Hán... đã minh chứng ngay từ đầu Công nguyên, nơi đây đã bắt đầu có những giao dịch ngoại thương. Một đặc điểm Micae có mùa nhận thấy là khu vực Hội An không có những dấu tích của thời kỳ đầu và giữa, nhưng mảnh đất nơi đây đã phần tồn tại và có sự phát triển rực rỡ nền văn hóa Sa Huỳnh muộn.Truyện sau nền văn hóa Sa Huỳnh, suốt từ thế kỷ 2 đến đến thế kỷ 15, một dải đất miền trung Việt Nam nằm dưới sự thống trị của vương quốc Chăm Pa. Những di tích đặc trưng của nền văn hóa này là các nhóm điện thờ đạo Hindu phân bổ dọc từ miền Trung tới miền Nam, và một trong những trung tâm đó nằm ở lưu vực con sông Thu Bồn. Ở đây , có mùa thấy một thủ phủ mang tính chính trị tại Trà Kiệu và một trung trung tâm mang tính tôn giáo nằm tại Mỹ Sơn. Những dấu tích đền tháp Chăm còn lại, những giếng nước Chăm, những pho tượng Chăm, những di vật của người Đại Việt, Trung hòa, Trung Đông thế kỷ 2-14 làm dự tỏ giả thuyết nơi đây phần có một Lâm Ấp Phố với một cảng dưới là Đại Chiêm phát triển hưng thịnh. Nhiều thư tịch cổ ghi nhận trong một thời gian khá 戴思杰, Chiêm cảng - Lâm Ấp Phố Third một vai trò quan trọng trong việc chức nên sự phồn vinh của kinh thành Trà Kiệu và khu di tích đền tháp Mỹ Sơn. Trải qua nhiều cuộc chiến tranh, vương quốc Chăm Pa bị Đại Việt đẩy bài về phía Nam. Năm 1471, thủ phủ cuối cùng của Chăm Pa ở Bầu Giá, Bình Định ngày nay, bị nhà Lê chiếm.
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Việt) 2:[Sao chép]
Sao chép!
Tên gọi
Tên gọi Hội An ngày nay been hình thành từ lâu much in lịch sử, but thật khó be determined chính xác thời điểm ra đời of it. Theo tác giả Dương Văn An trong cuốn sách Ô Châu cận lục, vào năm 1553, huyện Điện Bàn Cờ 66 xã, in which have xã Hoài Phô, Cẩm Phô, Lai Nghi, but chưa thấy cái tên Hội An been recorded lại. Dưới Thới Lê, tấm bản đồ làm đại thần Đỗ Bá vẽ ở trong Thiên Nam tứ chí lộ đồ may ghi lần đầu tiên all địa danh Hội An phố, Hội An đàm, Hội An kiều. Trên tấm bia Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật tại động Hoa Nghiêm, Ngũ Hành Sơn ghi tên users góp tiền xây dựng chùa, tên làng Hội An been nhắc to ba lần. Thời chúa Nguyễn Phúc Lan, làng Minh Hương been thành lập bên cạnh làng Hội An existing trước which. Căn cứ vào văn bản of dinh trấn Quảng Nam Thới Minh Mạng gửi trưởng nổ Hòa kiều, Hội An phố including the 6 làng: Hội An, Minh Hương, Cổ Trai, Đông An, Diêm Hộ, Hòa Phô. Nhà nghiên cứu người Pháp Albert Sallet cho that làng Hội An is làng quan trọng nhất trong năm làng tạo be quần cư Hội An cổ, including Hội An, Cẩm Phô, Phong Niên, Minh Hương and An Thọ. Người phương Tây xưa kia gọi Hội An bằng cái tên Faifo. Xuất xứ of cái tên This ngày nay retained exists nhiều giả thuyết. Trọng cuốn Từ điển Việt-Bồ-La of Alexandre de Rhodes ở tại Roma năm 1651, chữ Hoài phô defined: một làng trong xứ Cochinchine which người Nhật out and calling is Faifo. Một giả thuyết phổ biến cho that Faifo xuất phát từ tên Hội An phố, cái tên sử sách and địa chí Trung, Việt will nhắc to. Follow a thuyết khác, sông Thu Bồn trước kia called is sông Hoài, should Hội An còn called is Hoài Phố, sau Hoài Phố biến thành Phai Phố, from xuất hiện cái tên Faifo. In the messages from, ghi chép of the following giáo sĩ, học giả phương Tây, those cái tên Faifo, Faifoo, Fayfoo, Faiso, Facfo ... each xuất hiện nhiều lần. Alexandre de Rhodes trong bản đồ An Nam including the Đàng Trong and Đàng Ngoài ấn hành năm 1651 no specify Haifo. Về sau, trên bản đồ chính thức of chính quyền Đông Dương, người Pháp will be used tên Faifo to address Hội An. Thời kỳ tiền Hội An Bến Hội An Khu đô thị cổ Hội An behind Recent cửa sông Thu Bồn, con sông lớn nhất of tỉnh Quảng Nam. Mặc though vậy, ngày nay từ trung tâm thành phố to to cửa sông are no longer Recent lắm. Hạ lưu sông Thu Bồn on đổ ra biển Đông been chia thành nhiều nhánh. Nhánh tiếp xúc as khu phố cổ mang tên sông Hội An, còn dòng chảy between cồn Cẩm Nam and Cẩm Kim is the line of chính sông Thu Bồn. Trên those bản đồ cổ thế kỷ 17, 18, ​​Hội An behind trên bờ Bắc of sông Thu Bồn, thông as biển Đông Bang cửa Đại Chiêm and one line sông nối as cửa Đại of Đà Nẵng, Phía ngoài is one doi cát rộng. Dấu vết dòng sông nối liền Hội An for biển Cửa Hàn be determined is con sông Cổ Cò - Đế Võng ngày nay. Trên thủy trình cổ have each find nhiều lô tàu, mỏ neo bị chôn vui trong lòng đất. Tuy địa danh "Hội An" được cho that appears to blank cuối thế kỷ 16, but regions đất xung quanh đô thị have have a lịch sử much lâu đời. Trọng suốt thời kỳ "tiền Hội An", nơi đây each exists hai nền văn hóa lớn, which is văn hóa Sa Huỳnh and văn hóa Chăm Pa. Di chỉ initial of văn hóa Sa Huỳnh is phố Sa huỳnh out Quảng Ngãi bị cát vui lấp, are all nhà khảo cổ người Pháp phát hiện. Năm 1937, nữ học giả Madeleine Colani chính thức xác nhận đây is one nền văn hóa. Chỉ riêng trong khu vực thành phố Hội An have been detected than 50 địa điểm is di tích of nền văn hóa this, most tập trung out which cồn cát ven sông Thu Bồn cũ. Biệt đặc, sự phát hiện hai loại tiền đồng Trung Quốc thời Hán, those hiện vật sắt kiểu Tây Hán ... have Minh chứng ngay từ đầu Công nguyên, nơi đây have started with those giao dịch ngoại thương. Một đặc điểm khác possible nhận thấy is khu vực Hội An does not have the following dấu tích of thời kỳ đầu and giữa, but mảnh đất nơi đây have each exists and have sự phát triển rực rỡ nền văn hóa Sa Huỳnh muộn. Tiếp sau nền văn hóa Sa Huỳnh, suốt từ thế kỷ 2 to to thế kỷ 15, one dải đất miền trung Việt Nam under sự thống value of vương quốc Chăm Pa. Những di tích đặc trưng of nền văn hóa this is groups điện thờ đạo Hindu phân bổ dọc từ miền Trung to miền Nam, and one of those trung tâm then behind out lưu vực con sông Thu Bồn. Ở đây, you can be found one thủ phủ mang tính chính trị tại Trà Kiệu and one trung trung tâm mang tính tôn giáo behind tại Mỹ Sơn. Những dấu tích đền tháp Chăm còn lại, the giếng nước Chăm, nhung pho tượng Chăm, the di vật of người Đại Việt, Trung Hòa, Trung Đông thế kỷ 2-14 làm sáng tỏ giả thuyết nơi đây each have a Lâm Ấp Phố with one cảng biển is Đại Chiêm phát triển hưng thịnh. Nhiều thư tịch cổ ghi nhận in one thời gian khá dài, Chiêm cảng - Lâm Ấp Phố đóng one vai trò quan trọng trong việc tạo sự be Phồn vinh of kinh thành Trà Kiệu and khu di tích đền tháp Mỹ Sơn. Trải qua nhiều cuộc chiến tranh, vương quốc Chăm Pa bị Đại Việt đẩy dần về Phía Nam. Năm 1471, thủ phủ cuối cùng of Chăm Pa out Bầu Giá, Bình Định ngày nay, bị nhà Lê used.










đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2024 I Love Translation. All reserved.

E-mail: