và PV, BD, SB và Đảng. Như với nhiều tình huống rõ ràng gây nhầm lẫn trong
hóa ngũ cốc, một nghiên cứu là cần thiết để đánh giá mối liên quan giữa
amylopectin và amylose đặc điểm (tức là, nội dung và cấu trúc) và tinh bột
tính dán trên một tập hợp các mẫu mà là đại diện của thế giới
tế bào mầm. . Một nghiên cứu phân đoạn và tái thiết có thể được nói cũng
Độ nhớt dán của bột gạo, so với người đồng cấp tinh bột của nó là
báo cáo khác nhau do ảnh hưởng của các protein và lipid được
loại bỏ trong sản xuất tinh bột (Singh et al 2000;. Fitzgerald et al.
2003). Thí nghiệm phân tích độ nhớt dán trước và sau khi protein
và / hoặc loại bỏ bột lipid chỉ ra rằng protein có ảnh hưởng lớn đến bột
dán độ nhớt (Martin và Fitzgerald 2002;. Fitzgerald et al 2003).
Những thay đổi trong gạo tinh bột hạt cứng cũng được báo cáo thay đổi các dán
độ nhớt của tinh bột so với bột (Lai 2001). Wang et al. (2002) so với
các cấu nhớt dán các loại bột và tinh bột từ các loại nguyên, gãy và
màu vàng hạt gạo (Hình. 9.9). So với bột gạo toàn, bột gạo
có nhiệt độ dán tương tự nhưng HPV thấp hơn và ĐCSVN, trong khi màu vàng
bột gạo trưng bày nhiệt độ cao dán, ít sự cố, và
HPV cao hơn đáng kể và Đảng. Tuy nhiên, sự khác biệt trong dán
đặc tính giữa ba tinh bột không phân biệt so với của họ
đối bột.
Độ nhớt dán của bột gạo hoặc tinh bột bị ảnh hưởng bởi môi trường và
phương pháp điều trị sau thu hoạch. Thực hành quản lý văn hóa làm tăng hạt gạo
đang được dịch, vui lòng đợi..
