CON THUYỀN (NAM LÊ) VÀ VẺ ĐẸP CỦA VĂN CHƯƠNG HẬU HIỆN ĐẠI   Lê Tú Anh  dịch - CON THUYỀN (NAM LÊ) VÀ VẺ ĐẸP CỦA VĂN CHƯƠNG HẬU HIỆN ĐẠI   Lê Tú Anh  Việt làm thế nào để nói

CON THUYỀN (NAM LÊ) VÀ VẺ ĐẸP CỦA V

CON THUYỀN (NAM LÊ)
VÀ VẺ ĐẸP CỦA VĂN CHƯƠNG HẬU HIỆN ĐẠI

Lê Tú Anh

TÓM TẮT

2. NỘI DUNG
2.1. Nam Lê tên thật là Lê Hữu Phúc Nam, sinh năm 1978 tại Rạch Giá, Kiên Giang. Ba tháng tuổi, Nam Lê theo gia đình sang Malaysia, rồi định cư tại Australia. Sau khi tốt nghiệp Đại học Menbourne với hai bằng cử nhân văn chương và cử nhân luật, Nam Lê trở thành một luật sư trẻ và âm thầm theo đuổi sự nghiệp văn chương. Năm 2004, anh nhận bằng cao học trong lĩnh vực sáng tác văn chương sau khi tham gia trại sáng tác ở Iowa (Mỹ). Nam Lê cũng từng có thời gian làm biên tập viên ở tòa soạn tạp chí Harvard Review - một tạp chí văn học thuộc loại uy tín nhất ở Mỹ. Năm 2008, Nam Lê trở về Australia xuất bản tập truyện ngắn mang tên The boat (Con thuyền). Cuốn sách nhanh chóng nhận được nhiều giải thưởng như: Dylan Thomas Prize (2008), U. S. National Book Foundation “5 under 35 Fiction Selection (2008), Sydney Morning Herald Best Young Novelist Award (2009), Australian Prime Minister’s Literary Award (2009), PEN/Malamud Award for Excellence in the Short Story (2010). Hiện Nam Lê là nhà văn trẻ được yêu thích nhất tại Mỹ.
2.2. Tập truyện ngắn Con thuyền của Nam Lê được xuất bản tại Việt Nam năm 2011 bởi Nxb Hội Nhà văn, Thiên Nga và Thuần Thục chuyển ngữ. Có thể nhận thấy, điểm khởi đầu tạo nên thành công lớn của Nam Lê ở tập Con thuyền là những suy tư sâu sắc của người viết về sự khác biệt giữa văn học dân tộc và văn học quốc tế. Điều này khiến cho văn chương trở thành đề tài của văn chương ngay từ tác phẩm mở đầu tập truyện: Tình yêu và danh dự và thương hại và kiêu hãnh và cảm thông và hy sinh. Những câu hỏi thường được đặt ra với Nam – nhân vật mang nhiều nét tự thuật của nhà văn – là: Tại sao trở thành nhà văn? Viết cái gì và viết thế nào để có thể trở thành một nhà văn quốc tế? Lí do vì sao trở thành nhà văn đã được lí giải ngắn gọn: “Quan trọng không phải là ở chỗ bạn viết điều không ai có thể viết được mà là ở chỗ viết điều chỉ bạn có thể viết được” [; tr.], nhưng câu hỏi viết cái gì thì không dễ trả lời: “Hạn nộp truyện đến, thật mệt mỏi, tôi gồng mình viết cho kịp. Để rồi sau đó, trong khoảng thời gian dài giữa các hạn nộp, tôi quay trở về với màn hình trống trơn và đầu óc dần dần trở nên mụ mị. (…). Sao có thể khó đến thế được? Thế giới này lúc nào chẳng có chuyện xảy ra” [; tr.18]. Như vậy, đối với Nam, thử thách lớn nhất không phải là vấn đề cách viết, mà chính là đề tài/chủ đề/nội dung phản ánh. Dù đã có rất nhiều lời gợi ý rằng: “Cứ viết một truyện về Việt Nam ấy”, hay “Văn học dân tộc đang rất nổi. Và quan trọng nữa”, thậm chí Nam từng nghe nói đã có một phụ nữ Trung Quốc nhập cư vào Mỹ viết tuyển tập truyện ngắn về quá trình nhập cư vào Mỹ của người Trung Quốc và “có tin đồn rằng cô đã được mời ký hợp đồng sáu chữ số để viết hai quyển sách”…, nhưng Nam vẫn thấy rất “bế tắc ý tưởng”. Với một người viết có ý thức sâu sắc về sứ mệnh của ngòi bút như Nam, viết về một thứ gì đó tầm thường hoặc dễ dãi, là một sự xúc phạm ghê gớm. Nam cũng hình dung ra một cảm giác nhàm chán tột độ mà người viết có thể đem đến cho độc giả nếu cứ viết về những thứ đã quá quen thuộc. Cũng như những người bạn trẻ ở Iowa, vừa bắt đầu tập viết, Nam đã nhận ra hàng loạt giới hạn của văn học dân tộc. Trong các cuộc tranh luận sôi nổi giữa họ, các giới hạn đã được chỉ ra như: “Rặt mô tả thức ăn nước ngoài”, “Nhân vật lúc nào cũng nhạt nhẽo, chung chung”, ngôn ngữ nghèo nàn, hình ảnh dập khuôn, cũ mèm (“Tôi hình dung bản thân mình đội nón đứng giữa ruộng lúa – Đấy là cách làm độc giả chán ớn”), sử dụng ngôn từ một cách dễ dãi, sáo mòn, thiếu dụng công, thiếu thao tác gạch xóa cần thiết những dư thừa câu chữ (“Thỉnh thoảng tôi vẫn nghĩ về số từ theo cách một viên tướng nghĩ về số thương vong”)... Mặc dù vậy, lựa chọn cuối cùng cho tác phẩm kết thúc khóa học viết văn của Nam là câu chuyện về những thuyền nhân Việt Nam - một truyện dân tộc.
Cũng như nhân vật mang tính tự thuật của mình, trong tập truyện Con thuyền, Nam Lê dành hai truyện cho chủ đề dân tộc. Nhà văn trẻ người Úc khao khát trở thành một nhà văn quốc tế nhưng không hề có ý định phủ nhận gốc gác của mình. Nói khác đi, những phẩm chất của một nhà văn quốc tế mà Nam Lê ao ước không mâu thuẫn với việc anh quan tâm đến đề tài dân tộc hay viết về dân tộc. Thậm chí, nhà văn đang sống xa cố quốc này đã từng bận tâm sâu sắc về mối liên hệ giữa mình và dân tộc trong tư cách nhà văn: “Tôi vẫn chưa hiểu mối quan hệ giữa tôi với Việt Nam trong tư cách nhà văn. Tuyển tập này là một khát vọng để minh chứng: tôi càng lúc càng ổn hơn với các băn khoăn này”(11). “Ổn hơn” là bởi qua tập truyện, người đọc có thể thấy rõ tình cảm nhà văn dành cho cố quốc sâu nặng thế nào. Hai câu chuyện liên quan đến đề tài dân tộc được Nam Lê đặt ở hai vị trí quan trọng nhất của tập truyện là mở đầu và kết thúc. Cả hai đều liên quan tới cuộc chiến tranh ở Việt Nam trước 1975: một câu chuyện về những thuyền nhân Việt Nam âm thầm rời bỏ đất nước sau cuộc chiến (Con thuyền) và một câu chuyện nói về việc vì sao viết truyện về những thuyền nhân ấy (Tình yêu và danh dự và thương hại và kiêu hãnh và cảm thông và hy sinh). Cả hai đều giàu tính tự truyện. Qua đó, người đọc không chỉ hình dung được nhà văn đã ra đi trong tình thế nào, mà cả việc nhà văn đã sống trên đất khách ra sao. Điều khiến độc giả không khỏi ngạc nhiên là tại sao một người rời xa đất nước từ khi mới 3 tháng tuổi, lại có thể viết được những câu chuyện sâu sắc đến thế về Việt Nam. Thêm nữa là việc Nam Lê đã đưa vào tác phẩm một lượng lớn tiếng mẹ đẻ bao gồm thành ngữ, tục ngữ, phương ngữ, các đại từ nhân xưng... mà người chuyển ngữ dù đã rất cố gắng, vẫn chưa thể diễn thuật hết được. Nhưng điều tâm đắc nhất, có lẽ là chỗ này: Nam Lê đã viết về dân tộc trên một tinh thần quốc tế. Cả hai truyện đều không nhuốm chút màu sắc chính trị nào. Mọi chất liệu hiện thực chỉ được huy động vào mục đích văn chương. Do vậy, những chuyện về chiến tranh từng dẫn tới hàng loạt hệ quả tồi tệ như tàn sát, phản bội, trừng phạt, trốn chạy, tha hương... hoàn toàn không gợi lên cảm xúc gì về sự oán thù, chia rẽ, đoạn tuyệt. Những ám ảnh rùng rợn về cuộc chiến tranh tàn khốc chỉ khiến cho người ta muốn quên đi (Tình yêu và danh dự và thương hại và kiêu hãnh và cảm thông và hy sinh). Nỗi hãi hùng về một sự sống quá mỏng manh trên đường trốn chạy chỉ càng làm cho người ta thêm khát sống (Con thuyền). Nghĩa là, nói như nhà văn, nó cho người ta thấy một điều gì đó “rộng lớn hơn sự oán than, hiểm nguy hơn ký ức”. Bởi thế, việc quyết tâm chọn một đề tài lâu nay vẫn được xem là nhạy cảm cho những sáng tác về dân tộc - đề tài số phận của các thuyền nhân Việt Nam, người viết không nhằm mục đích “cho mọi người biết” những điều lẽ ra đã bị chôn vùi trong đống tro tàn quá khứ, mà để “cho mọi người phải nhớ” một bài học xương máu về chiến tranh. Điều này chưa bao giờ là vô nghĩa khi mà thế giới chúng ta đang sống vẫn đầy rẫy vũ khí giết chóc kinh hoàng. Thông điệp này khiến câu chuyện dân tộc không bị giới hạn trong khung khổ của nó. Đó là vấn đề toàn nhân loại, là câu chuyện muôn đời.
Đi tìm bản thể của tồn tại, Nam Lê khao khát vượt lên mọi giới hạn không gian đối với sáng tác của mình. Trừ hai truyện mở đầu và kết thúc có tính tự thuật liên quan tới chủ đề dân tộc được thể hiện trên tinh thần quốc tế, năm truyện còn lại kể về năm địa danh khác nhau, vào những khoảnh khắc rất độc đáo khác nhau. Đó là một lễ hội tôn giáo ở Tehran/một đêm Tehran ngột ngạt với một cô luật sư Mỹ trong cơn khủng hoảng tâm lý tuổi trung niên (Tiếng gọi Tehran). Đó là một buổi sáng trong vắt ở Hiroshima trước khi một quả bom nguyên tử được thả xuống (Hiroshima). Đó là một khu ổ chuột ở Colombia - nơi chàng trai 14 tuổi khao khát có được "một công việc văn phòng”, một sát thủ được thuê (Cartangena). Đó là vịnh Halflead… Quả là với tập Con thuyền, Nam Lê đã “thổn thức với những vẻ đẹp cùng nỗi đau của nhiều xứ sở”.
Tuy vậy, tính chất quốc tế/nhân loại trong tập truyện này không chỉ dừng lại ở những phương diện hình thức như đề tài hay nhân vật, bối cảnh không gian hay các sự kiện lịch sử có tầm ảnh hưởng nhân loại..., mà còn ở một vấn đề hết sức phổ quát: vấn đề số phận con người trước những thử thách của tồn tại. Trong cuộc đời, con người có thể phải đối mặt với những cảnh huống hoàn toàn cá biệt, nhưng phía sau những ứng xử độc đáo của một nhân vị tự do, nhà văn bao giờ cũng xác tín một bản năng sống. Bằng một sự thấu cảm sâu sắc, sự hiểu biết tường tận và sự tinh tế hiếm có, Nam Lê quả đã viết những điều chỉ anh ta mới viết được. Đọc Nam Lê, có một cảm giác rất thú vị là người đọc luôn được khơi mở để cùng khám phá và mong muốn biểu đạt những cảm xúc sâu xa, những suy nghĩ kín đáo nhất của nội tâm
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Việt) 1: [Sao chép]
Sao chép!
CON THUYỀN (NAM LÊ) VÀ VẺ ĐẸP CỦA VĂN CHƯƠNG HẬU HIỆN ĐẠI Lê Tú Anh TÓM TẮT2. NỘI DŨNG2.1. Nam Lê tên thật là Lê Hữu Phúc Nam, sinh năm 1978 tại Rạch Giá, Kiên Giang. Ba tháng tuổi, các Nam Lê theo gia đình sang Malaysia, rồi định cư tại Úc. Sau khi tốt nghiệp Đại học Menbourne với hai bằng cử nhân văn chương và cử nhân luật, Nam Lê trở thành một luật sự con và liveshow thầm theo đuổi sự nghiệp văn chương. Năm 2004, anh nhận bằng cao học trong lĩnh vực dự NXB văn chương sau khi tham gia trại dự NXB ở Iowa (Mỹ). Nam Lê cũng phần có thời gian làm biên tổ viên ở tòa soạn tạp chí Harvard Review - một tạp chí văn học thuộc loại uy tín nhất ở Mỹ. Năm 2008, Nam Lê trở về Australia cạnh bản tổ truyện ngắn mang tên thuyền (Con thuyền). Cuốn sách nhanh chóng nhận được nhiều giải thưởng như: Dylan Thomas giải (2008), U. S. National Book Foundation "5 dưới 35 viễn tưởng lựa chọn (2008), Sydney Morning Herald trẻ nhà văn xuất sắc (2009), chức vụ thủ tướng Úc giải thưởng văn học (2009), bút/Malamud giải thưởng xuất sắc trong truyện ngắn (2010). Hiện Nam Lê là nhà văn con được yêu thích nhất tại Mỹ.2.2. tổ truyện ngắn Con thuyền của Nam Lê được cạnh bản tại Việt Nam năm 2011 bởi Nxb Hội Nhà văn, Thiên Nga và Thuần Thục chuyển tính. Có mùa nhận thấy, điểm lớn đầu chức nên thành công lớn của Nam Lê ở tổ Con thuyền là những suy tư sâu sắc của người Matrix về sự Micae biệt giữa văn học dân tộc và văn học quốc tế. Điều này khiến cho văn chương trở thành đề tài của văn chương ngay từ NXB sanh mở đầu tổ truyện: Tình yêu và danh dự và thương hại và kiêu hãnh và cảm thông và hy sinh. Những câu hỏi thường được đặt ra với Nam-nhân vật mang nhiều nét tự thuật của nhà văn-là: Tại sao trở thành nhà văn? Matrix cái gì và Matrix thế nào tiếng có mùa trở thành một nhà văn quốc tế? Lí do vì sao trở thành nhà văn đã được lí giải ngắn gọn: "Quan trọng không phải là ở chỗ bạn Matrix Ban không ai có mùa Matrix được mà là ở chỗ Matrix Ban chỉ bạn có mùa Matrix được" [; tr.], nhưng câu hỏi Matrix cái gì thì không dễ trả hào: "Hạn nộp truyện đến, thật mệt mỏi , tôi gồng mình Matrix cho kịp. Để rồi sau đó, trong khoảng thời gian 戴思杰 giữa các hạn nộp, tôi quay trở về với màn chuyển nón trơn và đầu óc bài bài trở nên mụ mị. (…). Sao có mùa khó đến thế được? Thế giới này lúc nào chẳng có chuyện xảy ra"[; tr.18]. Như vậy, đối với Nam, thử thách lớn nhất không phải là vấn đề cách Matrix, mà chính là đề tài/hào đề/nội dung phản ánh. Dù đã có rất nhiều hào gợi ý rằng: "Cứ Matrix một truyện về Việt Nam ấy", hay "Văn học dân tộc đang rất nổi. Và quan trọng nữa", thậm chí Nam phần nghệ đảm đã có một phụ nữ Trung Quốc nhập cư vào Mỹ Matrix tuyển tổ truyện ngắn về quá trình nhập cư vào Mỹ của người Trung Quốc và"có Vàm tin rằng cô đã được mời ký hợp đồng sáu chữ số tiếng Matrix hai quyển sách"..., nhưng Nam vẫn thấy rất"bế tắc ý tưởng". Với một người Matrix có ý ngữ sâu sắc về tựa mệnh của ngòi bút như Nam, Matrix về một thứ gì đó tầm thường hoặc dễ dãi, là một sự xúc phạm ghê gớm. Nam cũng chuyển dũng ra một cảm tháp nhàm chán tột độ mà người Matrix có mùa đem đến cho độc giả nếu cứ Matrix về những thứ đã quá quen thuộc. Cũng như những người bạn con ở Iowa, vừa bắt đầu tổ Matrix, Nam đã nhận ra hàng loạt giới hạn của văn học của dân tộc. Trong các cuộc tranh biệt sôi nổi giữa họ, các giới hạn đã được chỉ ra như: "Rặt mô tả ngữ ăn nước ngoài", "Nhân vật lúc nào cũng nhạt nhẽo, chung chung", ngôn tính phối nàn, chuyển ảnh dập khuôn, cũ mèm ("Tôi chuyển dung bản thân mình huấn nón đứng giữa ruộng lúa-Đấy là cách làm độc giả chán ớn") , sử scholars ngôn từ một cách dễ dãi, sáo mòn, thiếu Scholars công, thiếu thảo NXB gạch xóa cần thiết những dư thừa câu chữ ("Thỉnh thoảng tôi vẫn nghĩ về số từ theo cách một viên tướng nghĩ về số thương vong")... Mặc dù vậy, lựa chọn cuối cùng cho NXB sanh kết thúc Teamwork học Matrix văn của Nam là câu chuyện về những thuyền nhân Việt Nam - một truyện dân tộc.Cũng như nhân vật mang tính tự thuật của mình, trọng tổ truyện Con thuyền, Nam Lê dành hai truyện cho hào đề dân tộc. Nhà văn con người Úc khao khát trở thành một nhà văn quốc tế nhưng không hề có ý định phủ nhận gốc gác của mình. Đảm Micae đi, những phẩm chất của một nhà văn quốc tế mà Nam Lê ao ước không mâu thuẫn với việc anh quan tâm đến đề tài dân tộc hay Matrix về dân tộc. Thậm chí, nhà văn đang sống xa cố quốc này đã phần bận tâm sâu sắc về mối liên hay giữa mình và dân tộc trong tư cách nhà văn: "Tôi vẫn chưa hiểu mối quan hay giữa tôi với Việt Nam trong tư cách nhà văn. Tuyển tổ này là một khát vọng tiếng minh chứng: tôi càng lúc càng ổn hơn với các băn khoăn này"(11). "Ổn hơn" là bởi qua tổ truyện, người đọc có mùa thấy rõ tình cảm nhà văn dành cho cố quốc sâu nặng thế nào. Hai câu chuyện liên quan đến đề tài dân tộc được Nam Lê đặt ở hai vị trí quan trọng nhất của tổ truyện là mở đầu và kết thúc. Đoàn Hải đều liên quan tới cuộc chiến tranh ở Việt Nam trước năm 1975: một câu chuyện về những thuyền nhân Việt Nam liveshow thầm rời bỏ đất nước sau cuộc chiến (Con thuyền) và một câu chuyện đảm về việc vì sao Matrix truyện về những thuyền nhân ấy (Tình yêu và danh dự và thương hại và kiêu hãnh và cảm thông và hy sinh). Đoàn Hải đều giàu tính tự truyện. Qua đó, người đọc không chỉ chuyển dũng được nhà văn đã ra đi trong tình thế nào, mà đoàn việc nhà văn đã sống trên đất khách ra sao. Điều khiến độc giả không khỏi ngạc nhiên là tại sao một người rời xa đất nước từ khi mới 3 tháng tuổi, lại có mùa Matrix được những câu chuyện sâu sắc đến thế về Việt Nam. Thêm nữa là việc Nam Lê đã đưa vào NXB sanh một lượng lớn tiếng mẹ đẻ bao gồm thành tính, tục tính, phương tính, các đại từ nhân xưng... mà người chuyển tính dù đã rất cố gắng, vẫn chưa mùa lại thuật hết được. Nhưng ban tâm đắc nhất, có lẽ là chỗ này: Nam Lê đã Matrix về dân tộc trên một tinh thần quốc tế. Đoàn Hải truyện đều không nhuốm chút màu sắc chính trị nào. Mọi chất suất hiện thực chỉ được huy động vào mục đích văn chương. Do vậy, những chuyện về chiến tranh phần dẫn tới hàng loạt hay tên tồi tệ như tàn sát, phản bội, trừng phạt, trốn chạy, tha hương... hoàn toàn không gợi lên cảm xúc gì về sự oán thù, chia rẽ, đoạn tuyệt. Những ám ảnh rùng rợn về cuộc chiến tranh tàn khốc chỉ khiến cho người ta muốn quên đi (Tình yêu và danh dự và thương hại và kiêu hãnh và cảm thông và hy sinh). Nỗi hãi hùng về một sự sống quá mỏng manh trên đường trốn chạy chỉ càng làm cho người ta thêm khát sống (Con thuyền). Nghĩa là, đảm như nhà văn, nó cho người ta thấy một ban gì đó "rộng lớn hơn sự oán than, hiểm nguy hơn ký ức". Bởi thế, việc quyết tâm chọn một đề tài lâu nay vẫn được xem là nhạy cảm cho những dự NXB về dân tộc – đề tài số phận của các thuyền nhân Việt Nam, người Matrix không nhằm mục đích "cho mọi người biết" những ban lẽ ra đã bị chôn vùi trong đống tro tàn quá khứ, mà tiếng "cho mọi người phải nhớ" một hai học xương máu về chiến tranh. Điều này chưa bao giờ là vô nghĩa khi mà thế giới chúng ta đang sống vẫn đầy rẫy vũ Phật giết chóc kinh hoàng. Thông điệp này khiến câu chuyện dân tộc không bị giới hạn trong khung khổ của nó. Đó là vấn đề toàn nhân loại, là câu chuyện muôn đời.Đi tìm bản Bulgaria của tồn tại, Nam Lê khao khát vượt lên mọi giới hạn không gian đối với dự NXB của mình. Trừ hai truyện mở đầu và kết thúc có tính tự thuật liên quan tới hào đề dân tộc được mùa hiện trên tinh thần quốc tế, năm truyện còn lại kể về năm địa danh Micae nội, vào những khoảnh khắc rất độc đáo Micae nội. Đó là một lễ hội tôn giáo ở Tehran/một đêm Tehran ngột ngạt với một cô luật sự Mỹ trong cơn khủng hoảng tâm lý tuổi trung niên (Tiếng gọi Tehran). Đó là một buổi dự trong vắt ở Hiroshima trước khi một tên bom nguyên nên được thả xuống (Hiroshima). Đó là một khu ổ chuột ở Colombia - nơi chàng trai 14 tuổi khao khát có được "một công việc văn phòng", một sát thủ được thuê (Cartangena). Đó là vịnh Halflead... Tên là với tổ Con thuyền, Nam Lê đã "thổn ngữ với những vẻ đẹp cùng nỗi đau của nhiều xứ sở". Tuy vậy, tính chất quốc tế/nhân loại trong tổ truyện này không chỉ dừng lại ở những phương diện chuyển ngữ như đề tài hay nhân vật, bối cảnh không gian hay các sự kiện lịch sử có tầm ảnh hưởng nhân loại..., mà còn ở một vấn đề hết sức phổ quát: vấn đề số phận con người trước những thử thách của tồn tại. Trong cuộc đời, con người có mùa phải đối mặt với những cảnh huống hoàn toàn cá biệt, nhưng phía sau những ứng xử độc đáo của một nhân vị tự do, nhà văn bao giờ cũng xác tín một bản năng sống. Bằng một sự thấu cảm sâu sắc, sự hiểu biết tường tận và sự tinh tế hiếm có, Nam Lê tên đã Matrix những ban chỉ anh ta mới Matrix được. Đọc Nam Lê, có một cảm tháp rất thú vị là người đọc luôn được khơi mở tiếng cùng khám phá và mong muốn biểu đạt những cảm xúc sâu xa, những suy nghĩ kín đáo nhất của nội tâm
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Việt) 2:[Sao chép]
Sao chép!
CON THUYỀN (NAM LÊ)
VÀ VẺ ĐẸP CỦA VĂN CHƯƠNG HẬU HIỆN ĐẠI Lê Tú Anh TÓM TẮT 2. NỘI DUNG 2.1. Nam Lê tên thật là Lê Hữu Phúc Nam, sinh năm 1978 tại Rạch Giá, Kiên Giang. Ba tuổi tháng, Nam Lê theo gia đình sang Malaysia, rồi định cư tại Úc. After tốt nghiệp Đại học Menbourne with the hai bằng cử nhân văn chương and cử nhân luật, Nam Lê become one luật sư trẻ and âm thầm theo đuổi sự nghiệp văn chương. Năm 2004, anh nhận bằng cao học trong lĩnh vực sáng tác văn chương after tham gia trại sáng tác out of Iowa (Mỹ). Nam Lê are each have thời gian làm biên tập viên out tòa soạn tạp chí Harvard Review - one tạp chí văn học thuộc loại uy tín nhất out Mỹ. Năm 2008, Nam Lê trở về Úc xuất bản tập truyện ngắn mang tên The thuyền (Con thuyền). Cuốn sách nhanh chóng receive nhiều giải thưởng such as: Dylan giải Thomas (2008), Mỹ Sách học quốc gia "5 dưới 35 Lựa chọn Fiction (2008), Sydney Morning Herald Giải thưởng Tiểu thuyết gia trẻ xuất sắc nhất (2009), giải thưởng văn học của Thủ tướng Úc (2009 ), PEN / Malamud Award for Excellence trong truyện ngắn (2010). Hiện Nam Lê is nhà văn trẻ been yêu thích nhất tại Mỹ. 2.2. Tập truyện ngắn Con thuyền of Nam Lê been xuất bản tại Việt Nam năm 2011 bởi Nxb Hội Nhà văn, Thiên Nga and Thuần Thục chuyển ngữ. Có thể nhận thấy, điểm khởi đầu tạo be successful lớn of Nam Lê out tập Con thuyền is which suy tư sâu sắc of người viết về sự khác between văn học dân tộc and văn học quốc tế. This make cho văn chương trở thành đề tài of văn chương ngay từ tác phẩm mở ​​đầu tập truyện: Tình yêu và danh dự and thương hại and Kiều Hạnh and cảm thông and hy sinh. Những câu hỏi thường be set ra as Nam - nhân vật mang nhiều nét tự thuật of nhà văn - is: Tại sao trở thành nhà văn? Viết cái gì and viết thế nào to you can become one nhà văn quốc tế? Dung làm vì sao trở thành nhà văn have been lí giải ngắn gọn: "Quan trọng does not out chỗ bạn viết điều could ai có thể viết been which is out chỗ viết điều chỉ you can viết được" [; tr], but câu hỏi viết cái gì thì no dễ trả lời: ". Hạn nộp truyện đến, thật mệt mỏi, tôi gồng mình viết cho Kip. Để rồi then, trong khoảng thời gian dài between hạn nộp, tôi quay trở về với màn hình trống trơn and đầu óc dần dần trở be mụ mị. (...). Sao possible khó to thế được? Thế giới this lúc nào chẳng may chuyện xảy ra "[; tr.18]. Như vậy, against Nam, thử thách lớn nhất could not matter cách viết, which is chính đề tài / chủ đề / nội phân phản ánh. Dù existing many lời gợi ý that: "Cứ viết one truyện về Việt Nam ấy", hay "Văn học dân tộc đang rất nổi. Và quan trọng nữa ", even Nam each nghe nói existing one phụ nữ Trung Quốc nhập cư vào Mỹ viết tuyển tập truyện ngắn về quá trình nhập cư vào Mỹ of người Trung Quốc và" have tin đồn that cô have been mời ký hợp đồng sáu chữ số to viết hai quyển sách "..., but Nam vẫn thấy rất" bế tắc ý tưởng ". With one người viết có ý thức sâu sắc về sứ mệnh of ngòi bút like Nam, viết về one thứ gì đó tầm thường or dễ dại, is one sự xúc phạm ghê gớm. Nam are hình phân ra one cảm giác nhàm chán tot độ which người viết have not count to cho độc giả if cứ viết về those thứ was too quen thuộc. As well as những người bạn trẻ out Iowa, vừa bắt đầu tập viết, Nam đã nhận ra hàng loat giới hạn of văn học dân tộc. Trọng all cuộc tranh luận Sôi nổi between the them, the giới hạn were the specified like: "Chuột mô tả thức ăn nước ngoài", "Nhân vật lúc nào cũng nhạt nhẽo, chung chung", ngôn ngữ nghèo nàn, hình ảnh dập khuôn, cũ mem ( "Tôi hình phân bản thân mình đội nón đứng centered ruộng lúa - Đấy is cách làm độc giả chán ớn"), sử dụng ngôn from a cách dễ dại, sáo mòn, thiếu dụng công, thiếu thao tác gạch xóa necessary those dư thừa câu chữ ( "Thỉnh thoảng tôi retained nghĩ về số từ theo cách an viên tướng nghĩ về số thương vong") ... Mặc though vậy, lựa chọn cuối cùng cho tác phẩm kết thúc khóa học viết văn of Nam là câu chuyện về those thuyền nhân Việt Nam -. one truyện dân tộc Cũng like nhân vật mang tính tự thuật of mình, trong tập truyện Con thuyền, Nam Lê dành hai truyện cho chủ đề dân tộc. Nhà văn trẻ người Úc khao khát become one nhà văn quốc tế but not hề có ý định phủ nhận gốc gác of mình. Nói khác đi, the phẩm chất of an nhà văn quốc tế which Nam Lê ao ước do not inconsistency as việc anh quan tâm to đề tài dân tộc hay viết về dân tộc. Even, nhà văn đang sống xa cố quốc have each bận tâm sâu sắc về mối liên hệ centered mình and dân tộc trong tư cách nhà văn: "Tôi retained chưa hiểu mối quan hệ centered tôi với Việt Nam trong tư cách nhà văn . Tuyển tập This is one khát vọng to Minh chứng: tôi as lúc as ổn than with you khoăn này "(11). "Ổn than" is bởi qua tập truyện, người đọc possible thấy rõ tình cảm nhà văn dành cho cố quốc sâu nặng thế nào. Hai câu chuyện liên quan to đề tài dân tộc been Nam Lê setting out hai vị trí quan trọng nhất of file truyện is mở đầu and the end. Both will liên quan to cuộc chiến tranh out Việt Nam trước năm 1975: một câu chuyện về those thuyền nhân Việt Nam âm thầm rời bỏ đất nước sau cuộc chiến (Con thuyền) and one câu chuyện nói về việc vì sao viết truyện về those thuyền nhân ấy (Tình yêu và danh dự and thương hại and Kiều Hạnh and cảm thông and hy sinh). Both will giàu tính tự truyện. Qua that, người đọc not only hình phân been nhà văn was ra đi trong tình thế nào, which cả việc nhà văn was sống trên đất khách ra sao. Điều make độc giả do not from your ngạc nhiên là tại sao one người rời xa đất nước word when mới 3 tháng tuổi, lại may have been viết those câu chuyện sâu sắc to thế về Việt Nam. Thêm nữa là việc Nam Lê was input tác phẩm one lượng lớn tiếng mẹ đẻ includes thành ngữ, tục ngữ, phương ngữ, the đại từ nhân xưng ... but người chuyển ngữ even have much cố gắng, vẫn chưa thể diễn thuật hết been. But điều tâm đắc nhất, might is chỗ này: Nam Lê was viết về dân tộc on an tinh thần quốc tế. Cả hai truyện will do not nhuộm chút màu sắc chính trị nào. Mọi chất liệu hiện thực only huy động vào mục Destination văn chương. Do vậy, những chuyện về chiến tranh each dẫn to hàng loat hệ quả tồi tệ like tàn sát, phản bội, TRUNG phạt, chạy trốn, tha hương ... hoàn toàn do not gợi lên cảm xúc gì về sự oán thù, chia rẽ , tuyệt đoạn. Những ám ảnh rùng rợn về cuộc chiến tranh tàn Khóc chỉ make cho người ta quên đi you want (Tình yêu và danh dự and thương hại and Kiều Hạnh and cảm thông and hy sinh). Nỗi hãi hùng về an sự sống quá mỏng manh trên đường trốn chạy chỉ as làm cho người ta thêm khát sống (Con thuyền). Nghĩa là, nói like nhà văn, it cho người ta thấy one gì đó "rộng larger sự oán hơn, hiểm nguy than ký ức". Bởi thế, việc quyết tâm select one đề tài lâu nay activities are xem is nhạy cảm for the sáng tác về dân tộc - đề tài số phận of the thuyền nhân Việt Nam, người viết no nham purpose "cho mọi người biết" those điều might have been ra chôn vui trong đống tro tàn quá khứ, but to "cho mọi người non nhớ" một bài học xương máu về chiến tranh. Điều này chưa bao giờ là vô nghĩa on which thế giới us đang sống retained đầy rẫy vũ khí giết chóc kinh hoàng. This message make câu chuyện dân tộc do not bị giới hạn trong khung khổ of it. Which is vấn đề toàn nhân loại, là câu chuyện muôn đời. Đi tìm bản thể of exists, Nam Lê khao khát beyond lên mọi giới hạn do not against gian sáng tác of mình. Trừ hai truyện mở đầu and ends with tính tự thuật liên quan to chủ đề dân tộc been thể hiện trên tinh thần quốc tế, năm truyện rest statistics about năm địa danh khác nhau, vào those khoảnh khắc much độc đáo khác nhau. Which is one lễ hội tôn giáo out Tehran / một đêm Tehran ngột ngát with one cô luật sư Mỹ trong cơn khủng hoảng tâm lý tuổi trung niên (Tiếng gội Tehran). Which is one buổi sáng trong vắt out Hiroshima before one quả bom nguyên tử thả xuống been (Hiroshima). Which is one khu ổ chuột out Colombia -. Nơi chàng trai 14 tuổi khao khát have been "một công việc văn phòng", one sát thủ been thuê (Cartangena) which is vịnh Halflead ... Quả is as file Con thuyền, Nam Lê was "Thon thức for those vẻ đẹp cùng nỗi đau of multiple xứ sở". Tuy vậy, tính chất quốc tế / nhân loại trong tập truyện this is not chỉ dừng lại out which phương diện hình thức like đề tài hay nhân vật, bối cảnh do not gian hay all sự kiện lịch sử have tầm ảnh hưởng nhân loại ..., but still out one vấn đề hết sức phổ quát:. vấn đề số phận con người trước those thử thách of existing Trọng cuộc đời, con người possible right đối mặt for those cảnh huống hoàn toàn cá biệt, but Phía sau those ứng xử độc đáo of an nhân vị tự do, nhà văn never are xác tín a copy năng sống. Bằng one sự thấu cảm sâu sắc, sự hiểu biết tường tận and sự tinh tế hiếm có, Nam Lê quả was viết those điều chỉ anh ta mới viết been. đọc Nam Lê, have a cảm giác much thú unit is người đọc luôn been khơi mở to cùng khám phá and expected biểu đạt those cảm xúc sâu xa, the suy nghĩ kín đáo nhất of nội tâm










đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2025 I Love Translation. All reserved.

E-mail: