Kể từ khi xuất bản của TIMSS và kết quả PISA, một cách tiếp cận hơn thẩm quyền theo định hướng giáo dục ở trường là trong tập trung sự chú ý của hiện tại thảo luận và nghiên cứu về giáo khoa. Các cuộc thảo luận về khả năng toán học chú trọng đặc biệt trên các khía cạnh để áp dụng toán học để giải quyết các vấn đề khác nhau của cuộc sống hàng ngày. Trong bài báo này khái niệm về một cách tiếp cận theo định hướng thẩm quyền của mô hình sẽ được kiểm tra và hơn nữa, một mô hình cấp của mô hình năng lực sẽ được giới thiệu. Đặc trưng khả năng liên kết với mỗi cấp độ được liệt kê và một số ví dụ sâu sắc được cung cấp. Các mô hình cấp sẽ được đặt trong khuôn khổ khái niệm toán học biết chữ và nó sẽ được một thời gian ngắn so với các mô hình khác của mô hình thẩm quyền.Cách tiếp cận theo định hướng thẩm quyềnBài báo này đề cập đến một thẩm quyền theo định nghĩa của Weinert (2001), trong đó nó được mô tả như là tổng số có sẵn hoặc learnable khả năng và kỹ năng cũng như sự sẵn lòng của sinh viên giải quyết các vấn đề sắp tới và hành động chịu trách nhiệm và quan trọng liên quan đến các giải pháp.Nếu chúng ta nhìn lên vùng khả năng toán học, một định nghĩa chính xác của thuật ngữ toán học thẩm quyền được cung cấp bởi Niss (2003). Niss mô tả toán học thẩm quyền như khả năng của cá nhân để sử dụng các khái niệm toán học trong nhiều tình huống, bao gồm cả những người mà nằm bên trong và bên ngoài lĩnh vực bình thường của toán học, nơi toán học có thể hoặc có thể đóng một vai trò có ý nghĩa (để hiểu, để quyết định, và lý do).Để xác định và kiểm tra loại thẩm quyền, Niss phân biệt giữa tám năng lực đặc trưng toán học. Những năng lực đặc trưng, Tuy nhiên, liên quan chặt chẽ và trong một số trường hợp trùng lặp. Sơ đồ phân loại trình bày sử dụng các khái niệm của chồng chéo "năng lực cụm" để mô tả các hoạt động nhận thức liên quan đến. Thẩm quyền trong việc xây dựng các mô hình có nguồn gốc từ một loạt các khả năng của con người. Các khả năng, Tuy nhiên, là chủ yếu là giống như những người coi là điều cần thiết cho khái niệm toán học thẩm quyền. Hơn nữa, mô hình thẩm quyền cũng đòi hỏi một tập hợp chồng chéo của khả năng, những người có cụ thể liên quan đến các hành động của mô hình.Nếu bạn nhìn vào giảng dạy và học tập của mô hình có là ít nhất hai phương pháp tiếp cận có thể. Một cách tiếp cận mục tiêu tại mô tả khả năng cần thiết, kỹ năng và Thái độ của sinh viên, chúng tôi có thể gọi này mô tả thành phần phương pháp tiếp cận. Việc kiểm tra năng lực khác nhau tô bóng dựa trên cái gọi là mô tả cấp. Klieme et al. (2003, trang 61) gọi những mô tả hai "Komponentenmodelle" và "Stufenmodelle". Bài báo này sau những sự khác biệt giữa các thành phần và kiểm tra các cấp độ khác nhau của mô hình thẩm quyền. Ở đây chúng tôi sẽ xem xét trên mô hình năng lực.Mô hình hóa dùng năng lựcSau một định nghĩa của thuật ngữ mô hình năng lực của Maaß (2004), giấy này bao gồm trong thuật ngữ mô hình thẩm quyền những khả năng, kỹ năng, Thái độ và sự sẵn lòng của sinh viên là rất quan trọng cho quá trình mô hình.Modelling competence includes the following: to structure, to mathematize, to interpret and to solve problems and it includes as well the ability to work with mathematical models: to validate the model, to analyze it critically and to assess the model and its results, to communicate the model and to observe and to control self- adjustingly the modelling process (Blum et al., 2002).In the following the theoretical framework of the paper will be shortly introduced.Theoretical frameworkBased on the considerations of a component oriented descriptions on mathematical literacy and modelling competence the authors adopted the competence levels of mathematical literacy to build up a level oriented description of modelling competence. The authors include their observations from modelling examples in different levels of school education to obtain a theoretical construction of a level model of modelling competence.In a second phase the authors set up empirical research to achieve deeper insight of the relations between the proposed levels of modelling competencies and the abilities, skills and attitudes of students.In the following a level model of the modelling competence will be introduced. Levels of modelling competenceThe development of the modelling competence is characterized in three levels. The three modelling competence levels are:Level 1: Recognize and understand modelling Level 2: Independent modellingLevel 3: Meta-reflection on modellingThis competence level model focuses mainly on cognitive modelling abilities and bases on theoretical considerations and empirical studies (Henning and Keune, 2004; Keune et al., 2004).The construct competence cannot be observed directly. One can only observe students’ behaviour and actions as they work on modelling tasks. Competence is understood here in the sense of a variable, from which different values can be reached by observing the behaviour of the students.The theoretical assumption here was that methods would at the first level be recognized and understood so that students would be able to independently solve problems at the second level. Furthermore the authors make the assumptions that meta-reflection on modelling would at the very least require both familiarity with modelling and personal experience.In the following the characteristic abilities that are related to the levels will be introduced.Characteristic abilitiesLevel 1 – Recognize and understand modelling – is characterized by the ability:- to recognize and- to describe the modelling process,- to characterize, to distinguish and to localize phases of the modelling process.Level 2 – Independent modelling – is characterized by the ability:- to analyze and to structure problems and to abstract quantities,- to adopt different perspectives,- to set up mathematical models,- to work on models,- to interpret results and statements of models,- to validate models and the whole process. Pupils who have reached this second level are able to solve a problem independently. Whenever the context or scope of the problem changes, then pupils must be able to adapt their model or to develop new solution procedures in order to accommodate the new set of circumstances that they are facing. A modest degree of improvement occurs within this level when pupils merely apply various approaches to solve the problem. Whenever the context or scope of the problem changes, then pupils must be able to adapt their model in order to accommodate the new set of circumstances that they are facing (Ikeda and Stephens, 2001).Level 3 – Meta-reflection on modelling – is characterized by the ability:- to critically analyze modelling,- to characterize the criteria of model evaluation,- to reflect on the cause of modelling,- to reflect on the application of mathematics.At this third level of competence, the overall concept of modelling is well understood. Furthermore, the ability to critically judge and to recognize significant relationships has been developed. Consideration concerning the part played by models within various scientific areas of endeavour as well as their utilization in science in general is present.At this level, it is not absolutely necessary to have previously solved problems by means of modelling techniques. This implies that finished models are examined and the inference that was drawn from them evaluated (Jablonka, 1996), while at the same time criteria for model evaluation is scrutinized (Henning and Keune, 2002).
Mathematical literacy and modelling competence
The concept of classification levels of modelling competence was developed in order to provide insight into the following important areas:
- Portrayal of the range of requisite human abilities involved
- Coordination of lesson plans and the selection of suitable instructional materials
- Implementation of a criteria based grading scheme for pupils
- Formulation of learning goals (i.e., acquisition of a mathematical competence, improving modelling competence)
The level of modelling competence pupils/ students achieved could be considered as one dimension of at least three dimensions in which a modelling activity takes place.
Figure 1: Different views on development of expertise in modelling
The concept of mathematical literacy connects the development of mathematical terms with the treatment of realistic tasks. This connection can be considered as analyzing, assimilating, interpreting and validating a problem, to be brief – modelling. The OECD/PISA (OECD, 1999, p. 41) gives a precise definition of the term mathematical literacy. “Mathematical literacy is an individual’s capacity to identify and understand the role the mathematics plays in the world, to make well-founded mathematical judgements and to engage in mathematics, in ways that meet the needs of that individual’s current and future life as a constructive, concerned and reflective citizen.”
The competencies which form the base for the process of such tasks have already been examined. In the works of Haines et al. (2001) component-oriented approaches are applied. Haines et al. distinguish between modelling competences and skills based on the phases of the modelling process.
Based on the works of Niss (1999, 2003), Blomhøj and Jensen (2004) characterize modelling competencies within three dimensions. According to that, the competence acquired by students concerning “technical level”, “radius of action” or “degree of coverage” can vary.
The presented level oriented description of modelling competence can be considered as another perspective on modelling competencies. The level model can be used as a descriptive, normative and meta-cognitive aid when assessing student performance, planning lessons and selecting teaching contents.
Examples
In the following three examples for assessing the level of mo
đang được dịch, vui lòng đợi..