3.2 Dân số ACD lực lượng lao động
Lực lượng lao động Việt Nam đã được phát triển cùng với sự gia tăng dân số. Đến cuối năm 2013, dân số Việt Nam đứng ở mức 89,7 triệu. Hiện nay} này 'divldend nhân khẩu học "đảm bảo sự hấp thu
năng lực của thị trường lao động được kiểm tra bởi các lối vào của nhóm dân số trẻ. Trong năm 2010, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động (LPR) là một quốc gia inter¬ cao 79,6 phần trăm, 81,9 phần trăm đối với nam và 77,3 phần trăm đối với phụ nữ (Ngân hàng Thế giới 2012). Cơ cấu lao động trong khi đó đã diver¬ sified. Hơn 12 năm kể từ năm 2000, tỷ trọng lao động của ngành lâm nghiệp, ngư nghiệp agricultural¬ giảm gần 15 điểm phần trăm, trong khi tỷ trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8 điểm phần trăm và khu vực dịch vụ tăng 7 điểm phần trăm. Tuy nhiên, 70 phần trăm lực lượng lao động vẫn sống ở nông thôn và công nhân tiến hành tạo thành một dân tộc thiểu số ở đây. Nhìn chung, năm 2012 công ăn lương chiếm 34,7 cent mỗi lực lượng lao động Việt trong khi 62,7 phần trăm là lao động tự hoặc thành viên gia đình chưa thanh toán (GSA 2013, 2014a). Đối với quyền sở hữu, tỷ lệ lao động khu vực nhà nước gần đây đã giảm nhẹ từ 11,6 phần trăm năm 2005 xuống còn 10,4 phần trăm trong năm 2012 trong khi đó khu vực ngoài nhà nước trong employ¬ về phát tăng (từ 85,8% năm 2005 lên 89,6% trong năm 2012 ). Ngoài ra, việc làm trong các doanh nghiệp có vốn nước ngoài (FIEs) tăng từ 1,0 phần trăm in2000 đến 2,6 phần trăm trong năm 2005 và 3,3 phần trăm trong năm 2012 (2010 Cling et al;. GSA 2013, 2014a, 2014b).
Tỷ lệ thất nghiệp là khá thấp Việt Nam. Tỷ lệ thất nghiệp nói chung trong năm 2013 ước tính đạt 2,2 phần trăm: từ 3,6 phần trăm trong khu vực đô thị để 1,6 phần trăm ở các khu vực nông thôn và từ 6,4 phần trăm trong số những người trẻ tuổi từ 15-24 đến 1.2 phần trăm cho người lao động trong độ tuổi từ 25 tuổi trở kết thúc. How¬ bao giờ hết, năng suất lao động thấp so với các nước khác, và tốc độ tăng trưởng năng suất lao động (tính theo giá so sánh) đã chậm lại từ 3,6 phần trăm trong năm 2010 lên 2,5 phần trăm trong năm 2012. Mặc dù có một xu hướng tích cực trong giáo dục và đào tạo bởi các chính phủ, các độ học vấn của lực lượng lao động vẫn còn khá hạn chế. Trong năm 2012, chỉ có 17,9 phần trăm của lực lượng lao động đã được đào tạo. Sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn trong tỷ lệ dân số sử dụng đào tạo là đáng kể đạt 22,5 điểm phần trăm (33,7% đối với khu vực thành thị và 11,2% đối với khu vực nông thôn). Trong năm 2012, chỉ có 17 phần trăm đã có một trình độ chuyên môn kỹ thuật chính thức, và chỉ có 6,4 phần trăm đã có một nền giáo dục đại học. Hơn nữa, trên 40 phần trăm dân số được sử dụng làm việc ở tiểu học, nghề thấp tay nghề cao (GSA 2013).
3.3 Vai trò của nhà nước liên quan đến thiết lập mức lương
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tiền lương là một sự motiva¬ cho sự phát triển bền vững. Chính sách tiền lương, do đó, rất meaning¬ ful để phát triển kinh tế-xã hội. Sự gia tăng tiền lương sẽ, do đó, là một biện pháp quan trọng của kích cầu. Do đó, người lao động được khuyến khích để cải thiện và học các kỹ năng cần thiết và phát triển nguồn nhân lực của mình - một yếu tố cốt lõi cho sự phát triển bền vững. Tuy nhiên, tiền lương không phải là ưu đãi chỉ. Trước hết, có những lợi ích khác, cả bằng tiền mặt và hiện vật; thứ hai, chính sách nhà ở cũng đóng một vai trò ITR-portant như một sự khuyến khích; thứ ba,
việc cung cấp các dịch vụ giáo dục và chăm sóc y tế miễn phí cho người lao động và gia đình họ là một cách quan trọng để tăng tiền lương thực tế của họ, và cuối cùng, công bằng, minh bạch và công bằng trong chính sách tiền lương giúp tăng cường chất lượng công việc và năng suất.
Do đó, vai trò của tiền lương như một neo cho phát triển kinh tế xã hội
đã được nắm bắt bởi đảng Cộng sản Việt Nam và chính phủ. Theo nghị quyết của Ủy ban Trung ương Com Việt
bên cộng sản, 'lương phải gắn với tăng trưởng kinh tế-xã hội quốc gia. Trả lương bình đẳng cho người lao động là việc thực hiện cho đầu tư phát triển, góp phần đáng kể vào việc nâng cao trách nhiệm và năng suất của người lao động và các dịch vụ dân sự ", và" chính sách tiền lương phải được phù hợp với chế độ của nền kinh tế thị trường, mà con cống phẩm cho nền tảng của một thị trường lao động lành mạnh, thu hút người lao động có việc làm chất lượng cao trong các lĩnh vực quan trọng của nhà nước '. Năm 2011 Chính phủ đã quyết định để nghiên cứu cách một, nhiều hơn, cơ chế tiền lương dựa trên thị trường mới có thể được thiết lập. Cũng nên lưu ý rằng các mạng lưới an sinh xã hội đã được cải thiện nhiều và đã có những đóng contri chú ý đến
đang được dịch, vui lòng đợi..
