Như bao tôn giáo khác, Phật giáo luôn đề cao triết lý nhân sinh làm sa dịch - Như bao tôn giáo khác, Phật giáo luôn đề cao triết lý nhân sinh làm sa Việt làm thế nào để nói

Như bao tôn giáo khác, Phật giáo lu

Như bao tôn giáo khác, Phật giáo luôn đề cao triết lý nhân sinh làm sao để con người nhận thức được bản chất của khổ đau và thực hành khổ đau như thế nào để con người không bị rơi vào trạng thái tuyệt vọng, để khi đối mặt với những nỗi đau khổ của cuộc sống hiện thực, con người biết sống tích cực trong chính cuộc đời ngắn ngủi này.
Phật giáo Phật giáo là một tôn giáo mang tính triết lý sâu sắc. Cuộc sống không phải tự nó là khổ hay vui mà chính con người, chính các thể dạng tâm thức của của con người làm phát sinh ra khổ đau hay an vui trong cuộc sống của chính mình và cũng chính bản than chúng ta mới là sự bắt đầu hay kết thúc của khổ đau, bởi vì Whatever has the nature to arise, all that has the nature to cease Đức Phật là người đã thấy rõ ràng nỗi khổ của nhân sinh và Ngài đã chỉ ra bản chất khổ đau của sự hiện hữu là gì? Và quyết tâm tìm ra con đường thoát khổ. Như vậy Obseve the teaching of the Buddha on suffering để thấy được tính tích cực của tôn giáo này trong vai trò là kim chỉ nam dẫn lối cho con người nhận thức được khổ và giải thoát khỏi những nỗi khổ mà con người từ khi thọ thai đến khi nhắm mắt xuôi tay phải gánh nhận.
Duhkha là một từ tiếng Phạn gồm hai từ ghép lại là: duh và kha. Kha có nghĩa là cái lỗ tròn ở giữa bánh xe dùng để đưa cái trục xe vào đó. The prefix ‘du’ is used in the sense of ‘vile’ (kucchita). It signifies something ‘bad’, ‘disagreeable’,‘uncomfortable’or ‘unfavourable.’ … Hence, these are called dukkha. Cho nên Dukkha có nghĩa là un-satisfactoriness, unpleasantness, suffering, pain, misery, discomfort, uneasiness…
Như vậy, khi tìm hiểu về khổ đau - duhkha chúng ta không chỉ dừng lại ở cách hiểu đó là sự bất an, rối loạn ở thể xác lẫn tinh thần mà duhkha còn bao hàm cả trạng thái hạnh phúc tương đối. Khi con người hiểu rõ được căn nguyên của sự vật, hiện tượng, con người sẽ tự tìm cho mình được cách giải thoát ra khỏi những bấn loạn hiện hữu. Đó mới chính là giá trị của từ duhkha trong quan niệm Phật giáo.
Có rất nhiều khổ đau trong cuộc sống và cũng có rất nhiều tôn giáo giảng giải về khổ đau. Ví như cách nói của thiên chúa giáo:We deserve the suffering because of our sins.God is testing our faith.The suffering is caused by the evil in the world and not God.We simply don't know, i.e. God works in mysterious ways.
Thế nhưng, không một giải thích nào làm người ta cảm thấy thỏa mãn vì họ không tìm ra được nguồn gốc của khổ và con đường đưa đến diệt khổ. Đạo Phật nói tới khổ, duhkha, nhưng chữ khổ nói tới trong đạo Phật không giống ý niệm khổ những người khác nói. Vì cái khổ Phật nói liên hệ tới tập, diệt và đạo. Có thể nhiều tôn giáo và truyền thống khác cũng nói tới khổ. Nhưng nghĩa chữ khổ họ nói tới không cùng nghĩa với chữ khổ trong đạo Phật, vì trong khổ đế có chứa đựng hạt giống của diệt, của đạo và của tập đế. Và không còn một nổi khổ nào khác ngoài những yếu tố này: For the suffering-and the Buddha does not know any other suffering, as we have amply shown-consists just in the state desired giving play to another state not desired. Đức Phật nói đến khổ là để chúng ta biết được mà quán chiếu và tu tập chứ không phải để than thở hay oán trách
Phật nói khổ cần phải được nhận diện và công nhận. Nếu bạn khổ mà không nhận diện được thực trạng đau khổ thì bạn làm sao đi xa hơn được. Nếu bạn bị bệnh nan y mà không biết rằng bạn có cái khổ của bệnh nan y và tìm cách cứu chữa thì bệnh sẽ càng trầm trọng. Vì vậy, việc đầu tiên là phải nhận thức tình trạng khổ của bạn. Nỗi khổ của bạn là nỗi khổ nào, chính bạn phải là người phải nhận diện ra nổi khổ ấy. Nếu không nhận diện được nỗi khổ thì ta không có năng lực diệt khổ.
Trên phương diện tục đế, thì khổ là ngược lại với vui, cái vui đó có thể trở lại thành khổ, rồi khổ đó trở lại thành vui, v. v... và chúng ta thường nói Birth is dukkhā, decay is dukkha, disease is dukkha, death is dukkha; sorrow, lamentation, pain, grief and despair are dukkha, association with the disliked is dukkha, separation from the liked is dukkhā, not getting what one wants is dukkhā, in brief, the five grasped-at-groups are dukkhā. đó là những cách diễn tả về cái khổ. Nhưng đó là thuộc lãnh vực tục đế. Chúng ta nên nhớ tục đế chỉ là những sự thật có giá trị tương đối. Ví dụ sinh là khổ, Đức Phật cho rằng giai đoạn nằm trong bào thai khổ như cái khổ địa ngục: that most fearful passage from the womb, like an infernal chasm, and lugged out through the extremely narrow mouth of the womb, like an elephant through a keyhole … Đó là một sự thật và khi chúng ta nhìn vào cuộc đời một con người từ khi sinh ra cho đến khi chết, có gì là vui? Nhưng ngược lại, ta cũng thấy khi một người mẹ sinh con ra thì cả nhà cả họ đều mừng vui. Khi một người như là Shiddhatta được sinh ra là cả hoàng cung làm lễ ăn mừng. Như vậy thì sinh cũng có thể là vui chứ không phải chỉ là khổ và sinh nhật vốn là một ngày vui. Trong phạm vi tục đế, tùy theo cái cách nhìn của chúng ta mà một hiện tượng được nhận thức là vui hay là khổ.
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Việt) 1: [Sao chép]
Sao chép!
Như bảo tôn giáo Micae, Phật giáo luôn đề cao triết lý nhân sinh làm sao tiếng con người nhận ngữ được bản chất của khổ đau và thực hành khổ đau như thế nào tiếng con người không bị rơi vào trạng thái tuyệt vọng, tiếng khi đối mặt với những nỗi đau khổ của cuộc sống hiện thực, con người biết sống tích cực trong chính cuộc đời ngắn ngủi này. Phật giáo Phật giáo là một tôn giáo mang tính triết lý sâu sắc. Cuộc sống không phải tự nó là khổ hay vui mà chính con người, chính các mùa dạng tâm ngữ của của con người làm phát sinh ra khổ đau hay an vui trong cuộc sống của chính mình và cũng chính bản hơn chúng ta mới là sự bắt đầu hay kết thúc của khổ đau, bởi vì bất cứ điều gì có tính chất để phát sinh , tất cả những gì Thiên nhiên để chấm dứt Đức Phật là người đã thấy rõ ràng nỗi khổ của nhân sinh và Ngài đã chỉ ra bản chất khổ đau của sự hiện hữu là gì? Và quyết tâm tìm ra con đường thoát khổ. Như vậy Obseve giảng dạy của Đức Phật về đau khổ tiếng thấy được tính tích cực của tôn giáo này trong vai trò là kim chỉ nam dẫn lối cho con người nhận ngữ được khổ và giải thoát khỏi những nỗi khổ mà con người từ khi thọ thai đến khi nhắm mắt xuôi tay phải gánh nhận.Duhkha là một từ tiếng Phạn gồm hai từ ghép lại là: duh và kha. Kha có nghĩa là cái lỗ tròn ở giữa bánh xe dùng tiếng đưa cái trục xe vào đó. Tiền tố 'du' được sử dụng trong ý nghĩa của 'thấp hèn' (kucchita). Nó có nghĩa là một cái gì đó 'xấu', 'disagreeable', 'khó chịu' hay 'bất lợi'.... Do đó, chúng được gọi là đau khổ. Cho nên Dukkha có nghĩa là bỏ satisfactoriness, sự không vui, đau khổ, đau đớn, đau khổ, khó chịu, lo lắng... Như vậy, khi tìm hiểu về khổ đau - duhkha chúng ta không chỉ dừng lại ở cách hiểu đó là sự bất an, rối loạn ở Bulgaria xác lẫn tinh thần mà duhkha còn bao hàm đoàn trạng thái hạnh phúc tương đối. Khi con người hiểu rõ được căn nguyên của sự vật, hiện tượng, con người sẽ tự tìm cho mình được cách giải thoát ra khỏi những bấn loạn hiện hữu. Đó mới chính là giá trị của từ duhkha trong quan niệm Phật giáo. Có rất nhiều khổ đau trong cuộc sống và cũng có rất nhiều tôn giáo giảng giải về khổ đau. Ví như cách đảm của thiên chúa giáo: chúng tôi xứng đáng những đau khổ vì tội lỗi của chúng tôi. Thiên Chúa là thử nghiệm Đức tin của chúng tôi. Đau khổ là do cái ác trên thế giới và không God.We chỉ đơn giản là không biết, tức là Đức Chúa trời hoạt động theo những cách bí ẩn. Thế nhưng, không một giải thích nào làm người ta cảm thấy thỏa mãn vì họ không tìm ra được nguồn gốc của khổ và con đường đưa đến diệt khổ. Đạo Phật đảm tới khổ, duhkha, nhưng chữ khổ đảm tới trọng đạo Phật không giống ý niệm khổ những người Micae đảm. Vì cái khổ Phật đảm liên hay tới tổ, diệt và đạo. Có mùa nhiều tôn giáo và truyền thống Micae cũng đảm tới khổ. Nhưng nghĩa chữ khổ họ đảm tới không cùng nghĩa với chữ khổ trong đạo Phật, vì trong khổ đế có chứa đựng hạt giống của diệt, của đạo và của tổ đế. Và không còn một nổi khổ nào Micae ngoài những yếu tố này: đối với những đau khổ- và Ðức Phật không biết bất kỳ khác đau khổ, như chúng ta có amply Hiển thị-bao gồm chỉ chơi cho nhà nước mong muốn đến một nhà nước không mong muốn. Đức Phật đảm đến khổ là tiếng chúng ta biết được mà quán chiếu và tu tổ chứ không phải tiếng hơn thở hay oán tráchPhật đảm khổ cần phải được nhận diện và công nhận. Nếu bạn khổ mà không nhận diện được thực trạng đau khổ thì bạn làm sao đi xa hơn được. Nếu bạn bị bệnh nan y mà không biết rằng bạn có cái khổ của bệnh nan y và tìm cách cứu chữa thì bệnh sẽ càng trầm trọng. Vì vậy, việc đầu tiên là phải nhận ngữ tình trạng khổ của bạn. Nỗi khổ của bạn là nỗi khổ nào, chính bạn phải là người phải nhận diện ra nổi khổ ấy. Nếu không nhận diện được nỗi khổ thì ta không có năng lực diệt khổ. Trên phương diện tục đế, thì khổ là ngược lại với vui, cái vui đó có thể trở lại thành khổ, rồi khổ đó trở lại thành vui, v. v... và chúng ta thường nói Birth is dukkhā, decay is dukkha, disease is dukkha, death is dukkha; sorrow, lamentation, pain, grief and despair are dukkha, association with the disliked is dukkha, separation from the liked is dukkhā, not getting what one wants is dukkhā, in brief, the five grasped-at-groups are dukkhā. đó là những cách diễn tả về cái khổ. Nhưng đó là thuộc lãnh vực tục đế. Chúng ta nên nhớ tục đế chỉ là những sự thật có giá trị tương đối. Ví dụ sinh là khổ, Đức Phật cho rằng giai đoạn nằm trong bào thai khổ như cái khổ địa ngục: that most fearful passage from the womb, like an infernal chasm, and lugged out through the extremely narrow mouth of the womb, like an elephant through a keyhole … Đó là một sự thật và khi chúng ta nhìn vào cuộc đời một con người từ khi sinh ra cho đến khi chết, có gì là vui? Nhưng ngược lại, ta cũng thấy khi một người mẹ sinh con ra thì cả nhà cả họ đều mừng vui. Khi một người như là Shiddhatta được sinh ra là cả hoàng cung làm lễ ăn mừng. Như vậy thì sinh cũng có thể là vui chứ không phải chỉ là khổ và sinh nhật vốn là một ngày vui. Trong phạm vi tục đế, tùy theo cái cách nhìn của chúng ta mà một hiện tượng được nhận thức là vui hay là khổ.
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Việt) 2:[Sao chép]
Sao chép!
Như bao tôn giáo khác, Phật giáo luôn đề cao triết lý nhân sinh làm sao để con người nhận thức been bản chất of khổ đau and execute hành khổ đau like thế nào to con người can not bị rơi vào trạng thái tuyệt vọng, để on đối mặt for those nỗi đau khổ of cuộc sống hiện thực, con người biết sống tích cực trong chính cuộc đời ngắn ngùi this.
Phật giáo Phật giáo is one tôn giáo mang tính triết lý sâu sắc. Cuộc sống non tự it is khổ hay vui which chính con người, chính all thể dạng tâm thức of the con người làm phát sinh ra khổ đau hay một vui trong cuộc sống of chính mình and are chính bản hơn Chung ta mới is sự bắt đầu hay end of khổ đau, bởi vì dù có tính chất phát sinh, tất cả những gì có tính chất ngưng Đức Phật is người was found rõ ràng nỗi khổ of nhân sinh and Ngãi specified bản chất khổ đau of sự hiện hữu là gì? Và quyết tâm tìm ra con đường thoát khổ. Such Obseve giáo huấn của Đức Phật về khổ đau to see is tính tích cực of tôn giáo in the vai trò is kim chỉ nam dẫn lối cho con người nhận thức been khổ and giải quit those nỗi khổ which con người word when thọ Thái until nhắm mắt xuôi tay non gánh nhận.
'Khổ' is a word tiếng Phạn including the hai từ ghép lại là: duh and kha. Kha means cái lỗ tròn out centered bánh xe used to give cái trục xe to which. Tiền tố 'du' được dùng trong ý nghĩa của 'thấp hèn' (kucchita). Nó biểu cái gì đó 'xấu', 'khó chịu', 'uncomfortable'or' không thuận lợi. " ... Do đó, chúng được gọi là dukkha. Cho be Dukkha means un-satisfactoriness, khó chịu, đau khổ, đau đớn, khổ sở, khó chịu, lo lắng ...
Như vậy, on tìm hiểu về khổ đau - 'khổ' we do not chỉ dừng lại out cách hiểu which is sự bất an, rối loạn out thể xác are mutually tinh thần which 'khổ' còn bao hàm cả trạng thái hạnh phúc relative. Khỉ con người hiểu rõ been căn nguyên of sự vật, hiện tượng, con người will tìm cho mình been cách giải thoát from but you loạn hiện hữu. Which mới chính is the value of words 'khổ' trong quan niệm Phật giáo.
Có many khổ đau trong cuộc sống and also many tôn giáo giảng giải về khổ đau. Ví like cách nói the thiên chúa giáo: Chúng tôi xứng đáng với sự đau khổ vì sins.God chúng tôi đang thử nghiệm khổ đau faith.The của chúng tôi là do tà ác trên thế giới và không God.We chỉ đơn giản là không biết, tức là Thiên Chúa hoạt động trong bí ẩn cách.
Thế but without an giải thích nào làm người ta cảm thấy thỏa mãn vì they could ra được nguồn gốc of khổ and con đường give to diệt khổ. Đạo Phật nói to khổ, 'khổ', but chữ khổ nói to trong đạo Phật do not like ý niệm khổ users khác nói. Vì cái khổ Phật nói liên hệ to file, diệt and đạo. Có thể nhiều tôn giáo and traditional khác are nói to khổ. But literal khổ them nói to do not cùng nghĩa với chữ khổ trong đạo Phật, vì trong khổ đế have store đựng hạt giống of diệt, của đạo and of file đế. Và no longer one nổi khổ nào khác ngoài those yếu tố này: Đối với những đau khổ và Đức Phật không biết bất kỳ đau khổ khác, như chúng ta đã thấy amply-bao gồm chỉ trong trạng thái mong muốn cho chơi đến một trạng thái không mong muốn. Đức Phật nói to khổ is for our biết been which quán chiếu and tu tập chứ does not to hơn thở hay oán trách
Phật nói khổ needs to be recognized and công nhận. If you khổ but no identify been thực trạng đau khổ thì bạn làm sao đi xa than be. If you bị bệnh nan y but do not know that you cái khổ of bệnh nan y and tìm cách cứu chữa thì bệnh would as trầm trọng. Vì vậy, việc đầu tiên is not got thức tình trạng khổ directory. Nỗi khổ of you is nỗi khổ nào, chính you must người not recognized ra nổi khổ ấy. If you do not recognized been nỗi khổ thì ta without năng lực diệt khổ.
Trên phương diện tục đế, thì khổ is backwards with the vui, cái vui which can be trở lại thành khổ, rồi khổ which trở lại thành vui, vv. . and our thường nói sinh là dukkhà, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ; sầu, bi, khổ, đau buồn và tuyệt vọng là khổ, gắn với dukkha không thích là, tách từ dukkhà thích là, không nhận được những gì mình muốn là dukkhà, vắn tắt, năm nắm-at-nhóm là dukkhà. which is which cách diễn tả về cái khổ. But which is thuộc lãnh vực tục đế. Us be nhớ tục đế chỉ is which sự thật may giá trị tương đối. Example sinh is khổ, Đức Phật cho that period of is in bào Thái khổ like cái khổ địa ngục: đó đoạn đáng sợ nhất từ trong bụng mẹ, như một vực thẳm địa ngục, và lôi ra khỏi miệng cực kỳ hẹp của tử cung, như một voi thông qua một lỗ khoá ... Độ is one sự thật and when we nhìn vào cuộc đời an con người word when sinh ra until chết, có gì vui is? But ngược lại, ta are found on one người mẹ sinh con ra thì cả nhà cả they will mừng vui. When a user as Shiddhatta be sinh ra là cả hoàng cung làm lễ ăn mừng. Như vậy thì sinh also be vui chứ not only is khổ and sinh nhật Cap is one ngày vui. Trọng phạm vi tục đế, tùy theo cái cách nhìn of us but one hiện tượng received thức is vui hay là khổ.
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2025 I Love Translation. All reserved.

E-mail: