2. Khái quát tình hình sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng Việt NamĐố dịch - 2. Khái quát tình hình sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng Việt NamĐố Việt làm thế nào để nói

2. Khái quát tình hình sở hữu chéo

2. Khái quát tình hình sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam

Đối với thực tiễn Việt Nam, từ nhiều năm trước khi việc thành lập hệ thống ngân hàng cổ phần được thực thi, Chính phủ đã chủ trương phải có đại diện của mình trong mỗi ngân hàng và cácngân hàng quốc doanh lớn đã được lựa chọn để góp vốn với tư cách cổ đông nhà nước. Sự hiện diện của những ngân hàng quốc doanh nhằm mục đích hạn chế những hoạt động vượt ra ngoài khuôn khổ pháp lý nếu có cũng như những yếu kém ban đầu từ phía các ngân hàng cổ phần mới được thành lập. Trong bối cảnh bấy giờ, sự thận trọng này là cần thiết. Ngoài ra, xét từ góc độ nghiệp vụ, các ngân hàng quốc doanh lớn đã chia sẻ kinh nghiệm kinh doanh, quản trị thậm chí chia sẻ cả nguồn nhân lực với tất cả các ngân hàng họ góp vốn. Tuy nhiên, cùng với thời gian và sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam, ảnh hưởng của các hình thức sở hữu chéo cũng có nhiều biến đổi. Trong các nhóm sở hữu chéo đã nêu ở trên do Ủy ban Kinh tế Quốc hội phân loại, 3 nhóm sở hữu chéo đầu tiên có tính tích cực vì chủ yếu hướng đến việc tăng cường thúc đẩy hoạt động thương mại giữa Việt Nam và quốctế, góp phần nâng cao năng lực quản trị vốn hiệu quả của các TCTD. Trong khi đó, 3 nhóm còn lại có thể tiềm ẩn những nguy cơ xấu cho tính ổn định của hệ thống ngân hàng.

Nhìn chung, thực trạng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam như tỷ lệ nắm giữgiữa các tổ chức, vai trò của các cổ đông và công tác giám sát vai trò này là những vấn đề hết sức phức tạp bởi quan hệ chồng chéo mang tính lịch sử, đồng thời cũng mang tính biến động cao, kết hợp với nguồn thông tin hạn chế. Trước hết, rất nhiều công ty lớn, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế Nhànước và các tập đoàn cổ phần, dù không thuộc lĩnh vực tài chính nhưng hiện đang đầu tư dài hạn với vai trò nhà sáng lập, nhà đầu tư chiến lược trong các NHTM. Theo báo cáo của Ủy ban Kinh tế Quốchội, hiện tại có khoảng gần 40 các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân có sở hữu trên 5% tại cácNHTMCP.

Đối với hình thức sở hữu chéo giữa các ngân hàng với nhau, Vietcombank hiện là TCTD sở hữunhiều nhất cổ phần của những ngân hàng khác. Sau khi thoái vốn khỏi NHTMCP Gia Định (tên mới là Bản Việt), Vietcombank đang còn là cổ đông của SaigonBank, Eximbank, Quân đội, Phương Đông và Oceanbank với các tỷ lệ nắm giữ khác nhau. Theo thống kê, có khoảng 8 NHTMCP có quan hệ cổ phần với 4 NHTMNN. Quan hệ sở hữu này hình thành chủ yếu từ những hạn chế nghiệp vụ ngân hàng của các NHTMCP trong giai đoạn đầu thành lập cũng như trong giai đoạn khủng hoảng 1997 – 1998. Ngoài ra, hiện tượng sở hữu lẫn nhau giữa các NHTMCP cũng có xu hướng tăng lên trong thời gian qua.

Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng còn tồn tại những quan hệ ràng buộc phức tạp về mặt sở hữu khi mà các ngân hàng có những công ty con, công ty liên kết và những công ty này cũng nắm giữcổ phiếu ngân hàng. Đơn cử, tính đến ngày 17/5/2012, CTCK Sài Gòn – Hà Nội (SHS) sở hữu 3,74% vốntại NHTMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB), đồng thời, SHB sở hữu 8,22% vốn tại SHS. Với những biến đổingày càng phức tạp như vậy, sở hữu chéo giữa các ngân hàng thuộc các nhóm 4, 5 và 6 nêu trênđang tạo ra những hệ lụy tác động trực tiếp đến tính ổn định và lành mạnh của hệ thống.

Thứ nhất, nguồn lực và khả năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng không được đánh giá đúng mức. Sở hữu chéo đã cho phép nhiều ngân hàng với quy mô vốn điều lệ nhỏ lách được quy định của Nghị định 141/2006/NĐ-CP về mức vốn pháp định của các TCTD, theo đó vốn điều lệ thựcgóp của các ngân hàng phải đạt 1.000 tỷ đồng vào năm 2008 và 3.000 tỷ đồng vào năm 2010. Thôngqua sở hữu chéo, cổ đông của ngân hàng A có thể vay tiền ngân hàng B thông qua một công ty đầu tư tài chính của mình để góp vốn vào ngân hàng A và ngược lại hoặc là ngân hàng A đầu tư vào ngân hàng B, ngân hàng B đầu tư vào ngân hàng C và ngân hàng C lại quay lại đầu tư vào ngân hàng A.Chính điều này đã tạo ra luồng vốn tưởng là góp thật vào hệ thống nhưng thực chất lại là vốn vay lẫn nhau giữa các ngân hàng. Trong 4 năm qua, hàng loạt các NHTMCP đã nâng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ đồng. Nhưng trên thực tế, quy mô của dòng vốn mới thực sự được bổ sung vào hệ thống ngân hàng vẫn chưa được làm rõ. Với quy mô vốn điều lệ tăng, các ngân hàng được phép huy động thêm tiền gửitrong dân cư và hàng nghìn tỷ đồng vốn huy động mới này lại có thể được dùng để tài trợ cho nhữngdự án sân sau của chính các cổ đông lớn của ngân hàng. Ngoài ra, sở hữu chéo làm sai lệch việc đánhgiá rủi ro của hệ thống ngân hàng vì rất nhiều chỉ số dựa trên số vốn tự có như hệ số an toàn (CAR),hay tỷ lệ vốn tự có/tổng tài sản, trong khi đó vốn tự có của các ngân hàng không thực chất là có quymô như vậy mà bao gồm cả nguồn vốn ảo do sở hữu chéo. Trong những năm gần đây, tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng liên tục nóng khiến hệ số đòn bẩy tài chính tăng lên và hệ số an toàn vốn CAR giảm, đồng thời tấm đệm để phòng ngừa rủi ro là vốn tự có lại mỏng và bị gây nhiễu bởisở hữu chéo, tất cả những điều đó càng làm trầm trọng hơn những khó khăn của hệ thống.Các chỉ số không chính xác lại dẫn đến sai lệch cả về quản trị ngân hàng cũng như việc giám sát đối với hệ thống tài chính. Điều này là đặc biệt nguy hiểm vì những rủi ro trong lĩnh vựcngân hàng tài chính khi bùng phát thì có sức lan tỏa rất rộng và hậu quả nghiêm trọng cho toàn bộ nền kinh tế.

Thứ hai, sở hữu chéo có thể làm gia tăng việc cho vay thiếu kiểm soát. Đối vớicác doanh nghiệp (hay ngân hàng) là cổ đông lớn của ngân hàng, sở hữu chéo cho phép một doanh nghiệp (hay ngân hàng) có tỷ lệ cổ phần lớn trong các NHTM có thể gây áp lực (mộtcách hợp pháp như qua bỏ phiếu trong hội đồng quản trị với vị thế cổ đông chiến lược) để ngân hàng này cấp vốn đầu tư vào những dự án không đủ tiêu chuẩn của doanh nghiệp hay ngânhàng của mình. Hay nói các khác, khi một TCTD lớn chiếm cổ phần chi phối ngân hàng khácvà biến ngân hàng này thành “sân sau” của mình, họ có thể buộc ngân hàng bị chi phối cấp tín dụng cho những dự án rủi ro hoặc cho doanh nghiệp có quan hệ thân thiết. Mặc dù theoquy định thì các ngân hàng không được cho các cổ đông của mình vay vốn, nhưng các ngân hàng có thể lách quy định này bằng cách cho các công ty con của các doanh nghiệp vay vốn.Mặt khác, không loại trừ trường hợp lãnh đạo của ngân hàng chi phối lạm dụng quyền lựcbuộc ngân hàng mà mình có thể chi phối cấp tín dụng để phục vụ lợi ích cá nhân.

Thứ ba, các quy định về giới hạn tín dụng, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủiro của NHNN có thể bị làm sai lệch tinh thần bởi sở hữu chéo. Khi khách hàng doanh nghiệp không trả được nợ cho ngân hàng, thay vì xếp khoản vay thành nợ xấu và trích dựphòng rủi ro theo quy định, ngân hàng A giấu nợ xấu của mình bằng cách không khai báo nợ xấu mà nhờ ngân hàng B (ngân hàng A có sở hữu) cho vay để đảo nợ. Đây cũng là một trong những lý do khiến NHNN khó nắm được chính xác số nợ xấu của toàn bộ hệ thống ngân hàng.
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Việt) 1: [Sao chép]
Sao chép!
2. Khái quát tình chuyển sở hữu chéo trong hay thống ngân hàng Việt NamĐối với thực Trắngby Việt Nam, từ nhiều năm trước khi việc thành lập hay thống ngân hàng cổ phần được thực thi, Chính phủ đã hào trương phải có đại diện của mình trong mỗi ngân hàng và cácngân hàng quốc doanh lớn đã được lựa chọn tiếng góp vốn với tư cách cổ đông nhà nước. Sự hiện diện của những ngân hàng quốc doanh nhằm mục đích hạn chế những hoạt động vượt ra ngoài khuôn khổ pháp lý nếu có cũng như những yếu kém ban đầu từ phía các ngân hàng cổ phần mới được thành lập. Trong bối cảnh bấy giờ, sự thận trọng này là cần thiết. Ngoài ra, xét từ góc độ nghiệp vụ, các ngân hàng quốc doanh lớn đã chia trình kinh nghiệm kinh doanh, quản trị thậm chí chia trình đoàn nguồn nhân lực với tất đoàn các ngân hàng họ góp vốn. Tuy nhiên, cùng với thời gian và sự phát triển của hay thống ngân hàng Việt Nam, ảnh hưởng của các chuyển ngữ sở hữu chéo cũng có nhiều biến đổi. Trong các nhóm sở hữu chéo đã nêu ở trên do do ban Kinh tế Quốc hội phân loại, 3 nhóm sở hữu chéo đầu tiên có tính tích cực vì hào yếu hướng đến việc tăng cường thúc đẩy hoạt động thương mại giữa Việt Nam và quốctế, góp phần nâng cao năng lực quản trị vốn hiệu tên của các TCTD. Trong khi đó, 3 nhóm còn lại có Bulgaria tiềm ẩn những nguy cơ xấu cho tính ổn định của hay thống ngân hàng.Nhìn chung, thực trạng sở hữu chéo trong hay thống ngân hàng Việt Nam như tỷ lệ nắm giữgiữa các tổ chức, vai trò của các cổ đông và công NXB phẫn sát vai trò này là những vấn đề hết sức phức tạp bởi quan hay chồng chéo mang tính lịch sử, đồng thời cũng mang tính biến động cao , kết hợp với nguồn thông tin hạn chế. Trước hết, rất nhiều công ty lớn, đặc biệt là các tổ đoàn kinh tế Nhànước và các tổ đoàn cổ phần, dù không thuộc lĩnh vực tài chính nhưng hiện đang đầu tư 戴思杰 hạn với vai trò nhà dự lập, nhà đầu tư chiến lược trong các NHTM. Theo báo cáo của do ban Kinh tế Quốchội, hiện tại có khoảng gần 40 các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân có sở hữu trên 5% tại cácNHTMCP.Đối với chuyển ngữ sở hữu chéo giữa các ngân hàng với nội, Vietcombank hiện là TCTD sở hữunhiều nhất cổ phần của những ngân hàng ông. Sau khi thoái vốn khỏi NHTMCP Gia định (tên mới là Bản Việt), Vietcombank đang còn là cổ đông của SaigonBank, Eximbank, Quân huấn, Phương Đông và Oceanbank với các tỷ lệ nắm giữ ông nội. Theo thống kê, có khoảng 8 NHTMCP có quan hay cổ phần với 4 NHTMNN. Quận hay sở hữu này chuyển thành hào yếu từ những hạn chế nghiệp vụ ngân hàng của các NHTMCP trong giai đoạn đầu thành lập cũng như trong giai đoạn khủng hoảng năm 1997-1998. Ngoài ra, hiện tượng sở hữu lẫn nội giữa các NHTMCP cũng có xu hướng tăng lên trong thời gian qua.Bên cạnh đó, hay thống ngân hàng còn tồn tại những quán hay ràng buộc phức tạp về mặt sở hữu khi mà các ngân hàng có những công ty con, công ty liên kết và những công ty này cũng nắm giữcổ phiếu ngân hàng. Đơn cử, tính đến ngày 17/5/2012, CTCK Sài Gòn-Hà Nội (SHS) sở hữu 3,74% vốntại NHTMCP Sài Gòn-Hà Nội (SHB), đồng thời, SHB sở hữu 8,22% vốn tại SHS. Với những biến đổingày càng phức tạp như vậy, sở hữu chéo giữa các ngân hàng thuộc các nhóm 4, 5 và 6 nêu trênđang chức ra những hay lụy NXB động rục truyện đến tính ổn định và lành mạnh của hay thống.Thứ nhất, nguồn lực và gièm năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng không được đánh giá đúng mức. Sở hữu chéo đã cho phép nhiều ngân hàng với quy mô vốn ban lệ nhỏ lách được quy định của Nghị định 141/2006/NĐ-CP về mức vốn pháp định của các TCTD, theo đó vốn ban lệ thựcgóp của các ngân hàng phải đạt 1.000 tỷ đồng vào năm 2008 và 3.000 tỷ đồng vào năm 2010. Thôngqua sở hữu chéo, cổ đông của ngân hàng một có Bulgaria vay tiền ngân hàng B thông qua một công ty đầu tư tài chính của mình tiếng góp vốn vào ngân hàng một và ngược lại hoặc là ngân hàng một đầu tư vào ngân hàng B, ngân hàng B đầu tư vào ngân hàng C và ngân hàng C lại quay lại đầu tư vào ngân hàng A.Chính ban này đã chức ra luồng vốn tưởng là góp thật vào hay thống nhưng thực chất lại là vốn vay lẫn nội giữa các ngân hàng. Trong 4 năm qua, hàng loạt các NHTMCP đã nâng vốn ban lệ lên 3.000 tỷ đồng. Nhưng trên thực tế, các quy mô của dòng vốn mới thực sự được bổ sung vào hay thống ngân hàng vẫn chưa được làm rõ. Với quy mô vốn ban lệ tăng, các ngân hàng được phép huy động thêm tiền gửitrong dân cư và hàng nghìn tỷ đồng vốn huy động mới này lại có Bulgaria được dùng tiếng tài trợ cho nhữngdự án sân sau của chính các cổ đông lớn của ngân hàng. Ngoài ra, sở hữu chéo làm sai lệch việc đánhgiá rủi ro của hay thống ngân hàng vì rất nhiều chỉ số dựa trên số vốn tự có như hay số một toàn (xe), hay tỷ lệ vốn tự có/tổng tài ở, trong khi đó vốn tự có của các ngân hàng không thực chất là có quymô như vậy mà bao gồm đoàn nguồn vốn ảo do sở hữu chéo. Trong những năm gần đây, tăng trưởng tín Scholars của các ngân hàng liên tục nóng khiến hay số đòn bẩy tài chính tăng lên và hay số một toàn vốn xe hơi giảm, đồng thời tấm đệm tiếng phòng ngừa rủi ro là vốn tự có lại mỏng và bị gây nhiễu bởisở hữu chéo, tất đoàn những ban đó càng làm trầm trọng hơn những khó khăn của hay thống. Các chỉ số không chính xác lại dẫn đến sai lệch đoàn về quản trị ngân hàng cũng như việc phẫn sát đối với hay thống tài chính. Điều này là đặc biệt nguy hiểm vì những rủi ro trong lĩnh vựcngân hàng tài chính khi bùng phát thì có sức lan tỏa rất rộng và tỉnh hậu tên nghiêm trọng cho toàn bộ nền kinh tế.Thứ hai, sở hữu chéo có Bulgaria làm gia tăng việc cho vay thiếu kiểm soát. Đối vớicác doanh nghiệp (hay ngân hàng) là cổ đông lớn của ngân hàng, sở hữu chéo cho phép một doanh nghiệp (hay ngân hàng) có tỷ lệ cổ phần lớn trong các NHTM có Bulgaria gây áp lực (mộtcách hợp pháp như qua bỏ phiếu trong hội đồng quản trị với vị thế cổ đông chiến lược) tiếng ngân hàng này cấp vốn đầu tư vào những dự án không đủ tiêu chuẩn của doanh nghiệp hay ngânhàng của mình. Hay đảm các ông, khi một TCTD lớn chiếm cổ phần chi phối ngân hàng khácvà biến ngân hàng này thành "sân sau" của mình, họ có Bulgaria buộc ngân hàng bị chi phối cấp tín Scholars cho những dự án rủi ro hoặc cho doanh nghiệp có quan hay thân thiết. Mặc dù theoquy định thì các ngân hàng không được cho các cổ đông của mình vay vốn, nhưng các ngân hàng có Bulgaria lách quy định này bằng cách cho các công ty con của các doanh nghiệp vay vốn. Mặt ông, không loại trừ trường hợp lãnh đạo của ngân hàng chi phối lạm Scholars lại lựcbuộc ngân hàng mà mình có Bulgaria chi phối cấp tín Scholars tiếng tên vụ lợi học cá nhân.Thứ ba, các quy định về giới hạn tín Scholars, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủiro của NHNN có Bulgaria bị làm sai lệch tinh thần bởi sở hữu chéo. Khi khách hàng doanh nghiệp không trả được nợ cho ngân hàng, thay vì xếp khoản vay thành nợ xấu và trích dựphòng của rủi ro theo quy định, ngân hàng A giấu nợ xấu của mình bằng cách không khai báo nợ xấu mà nhờ ngân hàng B (ngân hàng một có sở hữu) cho vay tiếng đảo nợ. Đây cũng là một trong những lý do khiến NHNN khó nắm được chính xác số nợ xấu của toàn bộ hay thống ngân hàng.
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Việt) 2:[Sao chép]
Sao chép!
2. Khái quát tình hình sở hữu chéo in hệ thống ngân hàng Việt Nam With thực tiễn Việt Nam, từ nhiều năm before việc thành lập hệ thống ngân hàng cổ phần executed, Chính phủ chủ trương have must have đại diện your in each ngân hàng and cácngân hàng quốc doanh lớn has been selected for góp Cap as cách cổ đông nhà nước. Sự hiện diện of the following ngân hàng quốc doanh Nhâm purpose hạn chế those hoạt động beyond ra ngoài khuôn khổ pháp lý if as well as the following yếu kém ban đầu from the Phía ngân hàng cổ phần mới thành lập be. Trọng bối cảnh now, sự thận trọng This is necessary. Ngoài ra, xét từ góc độ nghiệp vụ, the ngân hàng quốc doanh lớn was chia sẻ kinh nghiệm kinh doanh, quản trị even chia sẻ cả nguồn nhân lực with all the bank they góp Cap. Tuy nhiên, along with the time and sự phát triển hệ thống ngân of hàng Việt Nam, ảnh hưởng of the hình thức sở hữu chéo also nhiều biến đổi. Trọng groups sở hữu chéo was Neu above làm Ủy ban Kinh tế Quốc hội phân loại, 3 nhóm sở hữu chéo đầu tiên has tính tích cực vì chủ yếu hướng to việc increase cường thúc đẩy hoạt động thương mại Centered Việt Nam and quốctế , góp phần nâng cao năng lực quản trị Cap hiệu quả of the TCTD. During which, 3 nhóm còn lại possible tiềm ẩn those nguy cơ xấu cho tính ổn định the system ngân hàng. Nhìn chung, thực trạng sở hữu chéo in hệ thống ngân hàng Việt Nam such as tỷ lệ nắm giữgiữa its tổ chức, vai trò of các cổ đông and công tác giám sát vai trò This is the following vấn đề hết sức phức tạp bởi quan hệ chồng chéo mang tính lịch sử, đồng thời that mang tính biến động cao, combined with nguồn thông tin hạn chế. Hết trước, many công ty lớn, đặc biệt is files đoàn kinh tế Nhànước and files đoàn cổ phần, though no thuộc lĩnh vực tài chính, but hiện đang đầu tư dài hạn with the vai trò nhà sáng lập, nhà đầu tư chiến lược in the NHTM. Theo báo cáo of Ủy ban Kinh tế Quốchội, hiện tại be between Recent 40 its doanh nghiệp nhà nước and tư nhân may sở hữu trên 5% tại cácNHTMCP. With hình thức sở hữu chéo between ngân hàng for nhau, Vietcombank hiện is TCTD sở hữunhiều nhất cổ phần of the following ngân hàng khác. After thoái Cap from a NHTMCP Gia Định (tên mới is Bản Việt), Vietcombank đang còn is cổ đông of SaigonBank, Eximbank, Quân đội, Phương Đông and Oceanbank with tỷ lệ nắm kept khác nhau. Theo thống kê, be between 8 NHTMCP has quan hệ cổ phần for 4 NHTMNN. Quan hệ sở hữu this hình thành chủ yếu từ those hạn chế nghiệp vụ ngân hàng của the NHTMCP in giai đoạn đầu thành lập as well as in the giai đoạn khủng hoảng 1997 - 1998. Ngoài ra, hiện tượng sở hữu are mutually exclusive between NHTMCP that may xu hướng grow up in thời gian qua. Bên cạnh that, hệ thống ngân hàng còn tồn tại those quan hệ ràng buộc phức tạp về mặt sở hữu on which the bank with those công ty con, công ty liên kết and those công ty This also nắm giữcổ phiếu ngân hàng. Đơn cử, tính to ngày 17/5/2012, CTCK Sài Gòn - Hà Nội (SHS) sở hữu 3,74% vốntại NHTMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB), đồng thời, SHB sở hữu 8,22% vốn tại SHS. For those biến đổingày as phức tạp such, sở hữu chéo between ngân hàng thuộc groups 4, 5 and 6 If trênđang tạo ra those hệ lụy tác động trực tiếp to tính ổn định and lành mạnh của hệ thống. Thứ nhất, nguồn lực and able to chống đỡ rủi ro of bank not be đánh giá đúng level. Sở hữu chéo was not allow nhiều ngân hàng for quy mô Cap điều lệ nhỏ lách be quy định of Nghị định 141/2006 / NĐ-CP về level Cap pháp định of the TCTD, theo which Cap điều lệ thựcgóp of the ngân hàng non đạt 1.000 tỷ đồng vào năm 2008 and 3.000 tỷ đồng vào năm 2010. Thôngqua sở hữu chéo, cổ đông ngân hàng A of you can vay tiền ngân hàng B thông qua one công ty đầu tư tài chính your for góp Cap vào bank Một and backwards or is ngân hàng A đầu tư vào ngân hàng B, ngân hàng B đầu tư vào ngân hàng C and ngân hàng C lại quay lại đầu tư vào ngân hàng A.Chính this you made ​​luồng Cap tưởng is góp thật to the system but thực chất lại là Cap vay are mutually exclusive between ngân hàng. Trọng 4 năm qua, hàng loat the NHTMCP was nâng Cap điều lệ lên 3.000 tỷ đồng. But trên thực tế, quy mô of lines Cap mới thực sự been bổ sung vào hệ thống ngân hàng still not làm rõ. With quy mô Cap điều lệ tăng, the bank allowed huy động thêm tiền gửitrong dân cư and hàng nghìn tỷ đồng Cap huy động mới này lại can be used for tài trợ cho nhữngdự án sân sau of chính các cổ đông lớn of hàng ngân. Ra ngoài, sở hữu chéo làm sai lệch việc đánhgiá rủi ro the system ngân hàng vì many chỉ số based on số Cap tự has such as hệ số một toàn (CAR), hay tỷ lệ Cap tự has / tổng tài sản, trong on which Cap tự have of the ngân hàng không thực chất is no such quymô mà bao gồm cả nguồn Cap ảo làm sở hữu chéo. In the năm recently, increase trưởng tín dụng of the ngân hàng liên tục nóng make hệ số đòn bẩy tài chính grow up and hệ số một toàn Cap CAR giảm, đồng thời tấm đệm for phòng ngừa rủi ro is Cap tự may lại mỏng and cause bị nhiễu bởisở hữu chéo, all those điều then as làm trầm trọng than those khó khăn of hệ thống.Các chỉ số không chính xác lại dẫn sai lệch to cả về quản trị ngân hàng also việc giám sát against hệ thống tài chính. This is đặc biệt nguy hiểm vì those rủi ro in lĩnh vựcngân hàng tài chính while bùng phát thì có sức lan tỏa much rộng and hậu quả nghiêm trọng cho toàn bộ nền kinh tế. Thứ hai, sở hữu chéo possible làm gia increase việc cho vay thiếu kiểm soát. Đối vớicác doanh nghiệp (hay ngân hàng) is cổ đông lớn of ngân hàng, sở hữu chéo allow an doanh nghiệp (hay ngân hàng) have tỷ lệ cổ phần lớn in the NHTM that can cause áp lực (mộtcách hợp pháp such as qua bỏ phiếu in hội đồng quản trị for vị thế cổ đông chiến lược) for ngân hàng this cấp Cap đầu tư vào dự án those insufficient tiêu chuẩn of doanh nghiệp hay nganhang of mình. Hay nói the other on one TCTD lớn occupy cổ phần chi phối ngân hàng khácvà biến ngân hàng this to "sân sau" của mình, they can be buộc ngân hàng bị chi phối cấp tín dụng for the dự án rủi ro or cho doanh nghiệp has quan hệ thân thiết. Mặc though theoquy định If you ngân hàng not be cho các cổ đông of mình vay vốn, but the bank possible lách quy định bằng cách this for the công ty con của các doanh nghiệp vay vốn.Mặt khác, do not loại trừ trường hợp lãnh đạo of ngân hàng chi phối lạm dụng quyền lựcbuộc ngân hàng mà mình có thể chi phối cấp tín dụng for phục vụ lợi ích cá nhân. Thứ ba, the quy định về giới hạn tín dụng, phân loại nợ and trích lập dự phòng rủiro of NHNN possible bị làm sai lệch tinh thần bởi sở hữu chéo. Khi khách hàng doanh nghiệp do not trả be nợ cho ngân hàng, thay vì xếp khoản vay thành nợ xấu and trích dựphòng rủi ro theo quy định, ngân hàng A Giấu nợ xấu of mình bằng cách can khai báo nợ xấu mà nhờ ngân hàng B (ngân hàng A has sở hữu) cho vay đảo nợ to. Đây that is one of the following reasons make NHNN khó nắm be fine số nợ xấu of the entire hệ thống ngân hàng.













đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2025 I Love Translation. All reserved.

E-mail: