Ngược lại, các ngưỡng mà tại đó các tỷ lệ theo luật định trên bắt đầu áp dụng cao nhất là ở các nước có một số lượng lớn các khung thuế suất thuế. Tại Chile, tỷ lệ hàng đầu của 40% ảnh hưởng đến cá nhân có thu nhập hơn 16,4 lần mức lương trung bình. Ngưỡng cao này là kết quả của một cấu trúc thuế cá nhân với bảy nhóm thuế và trợ cấp cơ bản rộng lượng vượt quá mức lương trung bình. Ngưỡng thu nhập cũng cao ở Bồ Đào Nha, nơi có tám nhóm thuế, và tại Hoa Kỳ, nơi có sáu. Ở Bồ Đào Nha, tỷ lệ đầu 45.88% bắt đầu áp dụng khi thu nhập vượt quá 9,7 lần mức lương trung bình. Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ kết hợp đầu là 41,9% bắt đầu áp dụng khi thu nhập vượt quá 8,4 lần mức lương trung bình. Một so sánh quốc-by-đất nước của Hình 1 (tại mục 2.1) và Hình 9 cho thấy mối liên hệ giữa sự thay đổi số của khung thuế và thay đổi trong ngưỡng thu nhập tại đó tỷ lệ theo luật định trên được áp dụng. So sánh 2000-2010, ngưỡng tỷ lệ kết hợp đầu giảm tại 11 trong số 13 quốc gia có số lượng các khung thuế suất thuế trung ương đã giảm (Áo, Bỉ, Cộng hòa Séc, Phần Lan, Pháp, Mexico, Ba Lan, Cộng hòa Slovak, Slovenia , Tây Ban Nha và Thổ Nhĩ Kỳ). Và trong số chín quốc gia mà số lượng các khung thuế suất thuế trung ương tăng, ngưỡng tỷ lệ kết hợp đầu tăng lên trong sáu người (Canada, Đức, Iceland, Israel, Nhật Bản và Bồ Đào Nha). Tuy nhiên, những thay đổi trong ngưỡng mà tại đó đầu tỷ lệ theo luật định bắt đầu áp dụng đã không được chỉ định hướng bởi những thay đổi về số lượng các khung thuế suất thuế. Nhìn chung, 2000-2010, ngưỡng thu nhập tại đó tỷ lệ theo luật định trên bắt đầu được áp dụng (được thể hiện như là một bội số của mức lương trung bình) đã giảm ở 20 quốc gia OECD, tăng ở 11 quốc gia và tương đối ổn định trong 3 quốc gia. Như thể hiện trong hình 9, thay đổi là cực đoan ở một số nước và tinh tế trong những người khác. Trong điều kiện tuyệt đối, mức giảm lớn nhất trong ngưỡng thu nhập tại đó tỷ lệ đầu bắt đầu áp dụng đã được quan sát thấy ở Mexico. Có, ngưỡng mà tại đó các tỷ lệ đầu của 40% bắt đầu áp dụng trong năm 2000 là 49,8 lần mức lương trung bình. Đến năm 2010, ngưỡng mà tại đó các tỷ lệ đầu của 30% bắt đầu áp dụng đã giảm xuống còn 4,5 lần mức lương trung bình. Giảm mạnh này là kết quả của cải cách dần dần làm giảm tỷ lệ đầu theo luật định giữa năm 2002 và 2007, và một cuộc cải cách tiếp theo đó tăng lên ngưỡng cho tỷ lệ đầu trong khi giới thiệu khung thuế mới. Đến năm 2010, kế hoạch thuế TNCN của Mexico bao gồm tám khung thuế với mức giá thấp hơn đáng kể và ngưỡng (như là một bội số của AW) so với tiến độ mười khung vào năm 2000. Hai nước khác mà giảm đi rất nhiều ngưỡng mà tại đó thuế suất hàng đầu bắt đầu được áp dụng là những người thực hiện những cải cách thiết lập một cơ cấu thuế suất duy nhất trong vòng một thập kỷ - Cộng hòa Séc và Cộng hòa Slovak. Ở những nước này, ngưỡng giảm hơn 80%, 2,5-0,4 lần so với mức lương trung bình tại Cộng hòa Séc, và 7,9-0,5 lần so với mức lương trung bình tại Cộng hòa Slovak. Ngưỡng giảm hơn 60% trong Slovenia và Thổ Nhĩ Kỳ, và hơn 40% ở Bỉ, Hàn Quốc, Luxembourg và Tây Ban Nha. thay đổi không đáng kể xảy ra ở Hy Lạp, Nhật Bản và Thụy Điển. Những thay đổi nhỏ trong ngưỡng mà tại đó các tỷ lệ đầu gây hiệu ứng có thể được gây ra bởi các chính sách chỉ số hóa các chính phủ, trong đó có thể được rõ ràng hoặc gồm có quảng cáo hoc tăng mỗi vài năm. Trợ cấp thuế và ngưỡng khung đầu mà không được lập chỉ mục hàng năm để tăng trưởng lợi nhuận có thể sẽ tăng trưởng với tốc độ hơi khác so với bình quân tiền lương, dẫn đến những thay đổi nhỏ trong giá trị của ngưỡng thu nhập hàng đầu thể hiện như là một bội số của mức lương trung bình. Mặt khác, thay đổi dường như nhỏ ở ngưỡng trong giai đoạn mười năm cũng có thể phản ánh những tác động tích lũy của những thay đổi chính sách khác nhau với tác động bù đắp.
đang được dịch, vui lòng đợi..
