Các tài nguyên dựa trên Xem
Penrose (1959) đã có công ty coi là một tập hợp các nguồn lực sản xuất và quan sát thấy rằng
các nguồn lực đã đủ khác biệt để thể hữu ích để giải thích mang phong cách riêng
bản chất của các công ty. Công việc tiếp theo của Chandler (1962) và Andrews (1972) đã kiểm tra các khái niệm
rằng kết cấu vững chắc và năng lực (và khả năng cạnh tranh) có liên quan trực tiếp đến sự
sẵn có (hoặc không) của các nguồn lực hữu hình và vô hình của các loại thảo luận của Penrose
(1959) và các tác phẩm trước đó của Selznick (1957) về việc xác định các năng lực đặc biệt
trong các doanh nghiệp. Các công việc này, và các nghiên cứu khác, đã dẫn đến việc xây dựng một cái nhìn resourcebased của các tổ chức.
Quan điểm dựa trên tài nguyên cơ bản là có liên quan với lý do tại sao các công ty khác nhau và cách họ
đạt được và duy trì lợi thế cạnh tranh như là một kết quả của những sự khác biệt. Đáng kể
tài nguyên phụ bộ phát sinh từ các quan điểm dựa vào tài nguyên là lãnh đạo chiến lược và ngầm
hiểu biết cả hai đều đã được cung cấp các lĩnh vực màu mỡ của nghiên cứu (Hoskisson, Hitt, Wan & Yiu,
1999). Đối với Penrose (1959) nguồn lực đã được xác định là những thứ vật chất một công ty mua, cho thuê, hoặc
sản xuất để sử dụng riêng của nó, và những người được thuê điều kiện mà làm cho chúng hiệu quả một phần của
công ty. Hơn nữa Penrose (1959) nhấn mạnh sự tương tác giữa vật chất và con người
tài nguyên như là không thể thiếu để thực hiện.
Do đó, quan điểm dựa vào tài nguyên là khác biệt từ quan điểm kinh tế vi mô truyền thống
của công ty như một hộp đen đồng nhất. Nó nhận ra sự khác biệt tài nguyên và sử dụng chúng để
giải thích sự khác biệt hiệu năng giữa các doanh nghiệp trong thị trường.
Quan điểm dựa trên tài nguyên đã kích thích nhiều nghiên cứu trong một loạt các lĩnh vực tài nguyên: các tác động
của kinh nghiệm kinh doanh độc đáo (Huff, 1982; Prahalad và Bettis, 1986); văn hóa tổ chức
(Barney, 1986, Fiol, 1991); tổ chức học tập (Teece, Pisano và Shuen, 1997),
kinh doanh (Nelson, 1991; Remult, 1987), và nguồn nhân lực (Amit và Schoemaker,
1993) là một số ví dụ.
Một công việc chuyên đề trong khu vực này là của Barney (1991) trong đó ông đề xuất một biện pháp của
các nguồn tài nguyên của đức hạnh của sự ít có, giá trị, inimitability và khả năng thay thế của họ. Tuy nhiên Barney
(1991) làm việc đã rút ra những lời chỉ trích sau (Black và Boal, 1994) vì điều trị của
các nguồn tài nguyên như các yếu tố riêng biệt và khác biệt và không phải là bó tài nguyên với các cụ
mối quan (Grant, 1991) mà kết hợp làm phát sinh một công ty cá nhân
lực và lợi thế cạnh tranh.
Lãnh đạo chiến lược và lý thuyết Quyết định chiến lược
leo thang lương CEO và sùng bái cá nhân mà phát triển xung quanh các nhà lãnh đạo của các công ty lớn,
cùng với biến động giá cổ phiếu đó xảy ra về việc bổ nhiệm hay từ nhiệm của riêng
cá nhân, chứng minh tầm quan trọng của lãnh đạo chiến lược trong tâm trí của cộng đồng
và thị trường. Trong phạm vi mà các nhà lãnh đạo cá nhân là độc nhất mà họ cung cấp cho công ty một tiềm năng
tài nguyên duy nhất và do đó có thể thêm đáng kể đến sự khác biệt giữa các doanh nghiệp trong
thị trường.
Lãnh đạo chiến lược tuy nhiên không chỉ tập trung vào cá nhân. Khác với công ty
cơ cấu quản lý đòi hỏi một cách tiếp cận rộng hơn và chiến lược lãnh đạo xem xét
đội ngũ quản lý và các cơ quan quản lý khác, trong bảng đặc biệt của giám đốc, cũng như
Giám đốc điều hành cá nhân, như các chỉ số về cách các doanh nghiệp hoạt động.
Trong lý thuyết cơ quan quản lý hàng đầu được xem như là đại lý của hiệu trưởng hành động với selfinterest và chương trình trong tâm trí của mình (Jensen và Meckling 1976; Fama, 1980; Fama và Jensen
1983) lý thuyết cơ quan .Tuy nhiên có xu hướng đánh giá thấp những khía cạnh tích cực của lãnh đạo điều hành
8
và phần lớn bỏ qua vai trò của các nhà lãnh đạo chiến lược trong sự thành công của tổ chức. Thay vào đó, tập trung vào các
chi phí liên quan đến việc tách quyền sở hữu và kiểm soát (Cannella và Monroe, 1997).
Lãnh đạo chiến lược, mặt khác mặc nhiên cho rằng các doanh nghiệp là phản ánh của các nhà quản lý hàng đầu của họ
(Hambrick và Mason, 1984) và rằng những kiến thức cụ thể, kinh nghiệm, giá trị và sở thích
của các nhà quản lý hàng đầu được phản ánh không chỉ trong các quyết định của họ, nhưng trong đánh giá của họ về quyết định
tình huống. Lý thuyết này được chính thức hóa như lý thuyết cấp trên và sau đó phát triển thành chiến lược
lý thuyết lãnh đạo (Finkelstien và Hambrick, 1996). Lý thuyết chiến lược lãnh đạo xem xét
tâm lý make-up của các nhà quản lý hàng đầu để giải thích sự lựa chọn chiến lược của họ và giả hàng đầu
các nhà quản lý khác nhau trên một hồ sơ cá nhân của các cấu trúc tâm lý chẳng hạn như kiến thức và kinh nghiệm (xem
ở trên) để ảnh hưởng đến sự lựa chọn chiến lược họ đưa ra.
đang được dịch, vui lòng đợi..
