GIỚI THIỆU
tế bào gan ung thư biểu mô (HCC) là loại ung thư phổ biến thứ năm trên toàn thế giới nhất và thứ ba
nguyên nhân thường gặp nhất của bệnh ung thư, với tỉ lệ trên toàn thế giới ước tính
632.000 trường hợp (1). Chiếm khoảng 90% của tất cả các bệnh ung thư gan nguyên phát, HCC là độc đáo ở chỗ
nó phát triển trong bối cảnh các yếu tố nguy cơ đã được thừa nhận rằng có trách nhiệm đánh dấu
sự thay đổi của tỷ lệ khối u và biểu hiện lâm sàng trên toàn thế giới. Giám sát liên tục của
cơ quan đăng ký ung thư đã chứng minh sự thay đổi quan trọng trong xu hướng thời của HCC
mắc, với một số bằng chứng cho sự gia tăng tỷ lệ mắc ở các nước giàu tài nguyên. Trong
khu vực, điều tra dịch tễ học phân tử đã dự đoán một sự gia tăng hơn nữa tỷ lệ mắc HCC
giá và tỷ lệ tử vong trong những thập kỷ tới do sự tích tụ của các bệnh nhân gan mạn tính
bệnh người được dự kiến sẽ phát triển HCC.
CÁC MẪU THAY ĐỔI CÁC DỊCH
Thực tế là HCC tỷ lệ này là phân bố không đồng đều trên khắp thế giới phản ánh sự
phân bố địa lý không đồng nhất của các yếu tố nguy cơ về môi trường có liên quan. Các rộng lớn
đa số (> 80%) trong các trường hợp HCC xảy ra ở vùng Viễn Đông và châu Phi cận Sahara, chủ yếu là
do hậu quả của nhiễm trùng mãn tính virus viêm gan B (HBV), nơi chuẩn hóa theo tuổi
tỷ lệ mắc dao động từ 28,5 và 48,8 trên 100.000 nam giới và 11,6 và 14,6 trên 100.000
phụ nữ (2). Một nửa số trường hợp thế giới của HCC xảy ra ở Trung Quốc, tương ứng với tỷ lệ tỷ lệ
35,2 trên 100.000 nam giới và 13,3 trên 100.000 phụ nữ. Các nước Nam Âu như
Tây Ban Nha, Hy Lạp và Ý, có tỷ lệ mắc trung bình tỷ lệ, dao động từ 7,5 và 13,5
100.000 nam giới và giữa 2,4 và 4,6 trên 100.000 phụ nữ so với các khu vực có tỷ lệ thấp như
Bắc và Nam Mỹ, Bắc Âu, và châu Đại Dương, nơi mà tỷ lệ mắc khoảng
giữa 2,0 và 3,6 trên 100.000 nam giới và 1,1 và 2,2 trên 100.000 phụ nữ (2). Các so sánh
phân tích của cơ quan đăng ký ung thư trong thời điểm khác nhau chỉ ra HCC dịch tễ học để
đã thay đổi trong thập kỷ qua. Một sự gia tăng trong tỷ lệ mắc HCC đã được ghi nhận giữa năm 1978
và năm 1982 và năm 1993 và năm 1997 ở một số khu vực có tỷ lệ thấp, trong đó có Anh,
Úc, và Mỹ (Hình. 1) (3,4), có lẽ liên quan đến sự lây lan của virus viêm gan C
(HCV), thông qua máu bị nhiễm bệnh, thiết bị y tế, và tiêm thuốc bất hợp pháp. Trong
cùng thời gian đó, HCC tỷ lệ giảm trong các quần thể được lựa chọn như Trung Quốc tại
Singapore và Thượng Hải và trong một đất nước giàu tài nguyên như Tây Ban Nha. Mặc dù những lý do cho một
tỷ lệ giảm của HCC ở những khu vực có tỷ lệ cao là không rõ ràng, nhiều manh mối trỏ đến một giảm
tiếp xúc của dân số đến chế độ ăn uống hepatocarcinogen aflatoxin B1 (AFB1) như là một hệ quả
của chính sách y tế và các chiến dịch tiêm chủng hàng loạt của trẻ sơ sinh chống lại HBV (5,6).
thực tế là tỷ lệ tử vong điều chỉnh theo tuổi của HCC gương tỷ lệ mắc trên toàn thế giới
chỉ ra rằng sự sống còn của bệnh nhân HCC là người nghèo và không lớn hơn một năm, trung bình. Trong
các trung tâm giới thiệu của các quốc gia giàu tài nguyên, lên đến 50% của tất cả các bệnh nhân có HCC sẽ được
chẩn đoán hoặc điều trị bằng một khối u di căn nút giai đoạn I (TNMI) hoặc nút khối u di căn
giai đoạn II khối u (TNMI II), so với 20 năm trước khi bệnh nhân có khối u giai đoạn đầu
đại diện cho một thiểu số rất nhỏ trong trường hợp sự cố. Những thay đổi trong dịch tễ học của HCC
sẽ tác động đến chính sách y tế do các nguồn lực tài chính tăng cần thiết cho dàn dựng và
điều trị, trong đó có một nhu cầu tăng lên đối với gan hiến tặng (7).
đang được dịch, vui lòng đợi..
