định hướng giữa công ty và các nhà cung cấp mà được thể hiện thông qua các cơ sở
giả định, các giá trị, hiện vật, và hành vi của công ty. Gần đây hơn, Plamatier (2008)
đề xuất một khái niệm về định hướng mối quan hệ của người mua và xác định đó là mong muốn của khách hàng để
tham gia vào một mối quan hệ mạnh mẽ với một người bán hiện tại hoặc tiềm năng để tiến hành cụ thể
trao đổi. Trong nghiên cứu này, chúng tôi áp dụng các quan điểm văn hóa tổ chức trong
việc khái niệm RMO giữa công ty và khách hàng. Không giống như các định hướng thị trường mà
tập trung vào việc tạo, phổ biến và ứng phó với thông tin thị trường, RMO
phản ánh triết lý của các công ty kinh doanh mà là có liên quan với các mối quan hệ
xây dựng bằng cách nuôi dưỡng niềm tin, sự đồng cảm, liên kết, và có đi có lại giữa một công ty và của
khách hàng (Sin et al, 2005a, b;... Tse et al, 2004)
Ở cấp độ hoạt động, RMO đề cập đến việc thực hiện các mối quan hệ
khái niệm tiếp thị. Sin et al. (2005b) đưa ra giả thuyết RMO như xây dựng một chiều,
bao gồm sáu thành phần: sự tin tưởng, liên kết, thông tin liên lạc, giá trị được chia sẻ, cảm thông,
và có đi có lại. Đầu tiên, tin tưởng là một thành phần thiết yếu cho một mối quan hệ thành công
giữa công ty và khách hàng của mình (Berry, 1995). Niềm tin đề cập đến một sự sẵn sàng dựa
trên một đối tác trao đổi trong đó có một có sự tự tin và độ tin cậy (Moorman et al,.
1993; Morgan và Hunt, 1994). Cụ thể hơn, khách hàng thường dựa vào họ
nhận thức về đặc điểm đối tác trao đổi như tính toàn vẹn và lòng nhân từ
để phát triển những dự đoán về hành vi tương lai đối tác trao đổi của (Dunn và
Schweitzer, 2005;. Palmatier et al, 2009). Tin tưởng vào một đối tác trao đổi có thể dẫn đến
kết quả thuận lợi (Palmatier et al., 2006). Thật vậy, khi tổ chức đầu mối tin tưởng
đối tác của nó, nó sẽ cảm thấy an toàn dựa trên một niềm tin tuyệt đối rằng mối quan hệ với các
đối tác sẽ dẫn đến kết quả tích cực (Andaleeb, 1996). Như vậy, chúng tôi đưa ra giả thuyết rằng
các mức độ tin tưởng giữa công ty và khách hàng của mình cao hơn, lớn hơn CS:
H1. Tin tưởng có một ảnh hưởng tích cực đối với CS.
Thứ hai, liên kết liên quan đến việc phát triển một mối quan hệ tình cảm giữa
hai đối tác diễn xuất một cách thống nhất hướng tới một mục tiêu mong muốn (Callaghan et al, 1995;.
Sin et al, 2005b.). Một mối quan hệ người mua-người bán lâu dài đòi hỏi sự liên kết phát triển
giữa công ty và khách hàng của mình (Sin et al., 2005b). Thật vậy, liên kết là tối quan trọng
tầm quan trọng cho mối quan hệ người mua-người bán thành công vì trái phiếu hình thành những hạt giống của
các chỉ tiêu người mua-người bán (Palmatier, 2008). Ngoài ra, việc phát triển những liên kết mạnh giữa
người bán và người mua hạn chế xung đột tiềm tàng giữa hai bên (Palmatier et al.,
2007). Khách hàng có một mối quan hệ mạnh mẽ hơn với các đối tác của họ thông qua đó
liên kết được hài lòng hơn những người không có một (Gutek et al., 1999). Như vậy,
chúng tôi đưa ra giả thuyết rằng các mức độ liên kết giữa công ty và khách hàng của mình cao hơn,
lớn hơn CS:
H2. Liên kết có ảnh hưởng tích cực đối với CS.
Các thành phần thứ ba của RMO là truyền thông, đó là chất keo để giữ cùng một
kênh phân phối (Mohr và Nevin, 1990). Truyền thông đề cập đến hình thức và
chia sẻ thông tin trao đổi và thông tin có ý nghĩa và kịp thời giữa
người mua và người bán (Sin et al., 2005b). Thật vậy, truyền thông đóng một vai trò quan trọng trong
việc hình thành các hợp tác và tin tưởng (Anderson và Narus, 1990). Giao tiếp là
một chiến lược xây dựng mối quan hệ hiệu quả, giúp giải quyết các tranh chấp, phù hợp mục tiêu, và
phát hiện ra giá trị tạo ra những cơ hội mới (Morgan và Hunt, 1994; Palmatier et al,.
2006). Giao tiếp hiệu quả thúc đẩy sự tương tác tích cực và tăng cường CS.
đang được dịch, vui lòng đợi..
