Văn Miếu được xây dựng từ năm (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Th dịch - Văn Miếu được xây dựng từ năm (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Th Việt làm thế nào để nói

Văn Miếu được xây dựng từ năm (1070

Văn Miếu được xây dựng từ năm (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông (Đại Việt sử ký toàn thư. Nhà xuất bản. Khoa học xã hội, Hà Nội, tập 1, tr.234) chép: "Mùa thu tháng 8, làm Văn Miếu, đắp tượng, Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến đấy học." [1]. Như vậy Văn miếu ngoài chức năng thờ các bậc Tiên thánh, Tiên sư của đạo Nho, còn mang chức năng của một trường học Hoàng gia mà học trò đầu tiên là Thái tử Lý Càn Đức, con trai vua Lý Thánh Tông với Nguyên phi Ỷ Lan, lúc đó mới 5 tuổi, đến năm 1072 tức là năm 8 tuổi lên ngôi trở thành vua Lý Nhân Tông
Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử Giám ở bên cạnh Văn Miếu có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam. Ban đầu, trường chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc đại quyền quý (nên gọi tên là Quốc Tử, người học đầu tiên là hoàng tử Lý Càn Đức). (Việt sử thông giám cương mục. Nhà xuất bản. Văn sử địa. 1957) chép: "Bính Thìn, năm Anh Vũ Chiêu Thắng thứ 1 tháng 4... lập nhà Quốc Tử Giám; tuyển trong các văn thần lấy những người có văn học, bổ vào đó". Năm 1156, Lý Anh Tông cho sửa lại Văn Miếu và chỉ thờ Khổng Tử.

Tượng vua Lý Nhân Tông
Năm Nguyên Phong thứ 3 1253, vua Trần Thái Tông đổi Quốc Tử Giám thành Quốc Học viện cho mở rộng và thu nhận cả con cái các nhà thường dân có sức học xuất sắc. Chức năng trường Quốc học ngày càng nổi bật hơn chức năng của một nơi tế lễ "Quý Sửu năm thứ ba(1253)... Tháng 6 lập Quốc Học viện tô tượng Khổng Tử, Chu công và Á Thánh, vẽ tượng 72 người hiền để thờ... Tháng 9 xuống chiếu cho các nho sĩ trong nước đến Quốc học viện giảng học tứ thư, lục kinh" (ĐVSKTT). Lấy Phạm Ứng Thần giữ chức Thượng thư kiêm chức Đề điệu Quốc Tử viện để trông nom công việc học tập tại Quốc Tử Giám.
Đời Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử giám Tư nghiệp (hiệu trưởng) và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Năm 1370 ông mất, được vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử.
Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành. Vào năm 1484, Lê Thánh Tông cho dựng bia của những người thi đỗ tiến sĩ từ khoa thi 1442 trở đi (chủ trương đã đề ra năm 1442 nhưng chưa thực hiện được). Mỗi khoa, một tấm bia đặt trên lưng rùa. Tới năm đó, nhà Lê đã tổ chức được 12 khoa thi cao cấp, Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã tổ chức đều đặn cứ ba năm một lần, đúng 12 khoa thi.
Không phải khoa thi nào tiến hành xong đều được khắc bia ngay, không phải bia đã dựng thì vĩnh tồn, không hư hỏng, không mất mát. Từng thời có những đợt dựng, dựng lại lớn, như năm 1653 (Thịnh Đức năm thứ nhất, năm 1717 (Vĩnh Thịnh năm thứ 13).
Cuối triều Lê, thời Cảnh Hưng, bia vẫn được khắc đều đặn. Dù không còn giữ được đủ bia, nhà công trình điêu khắc giá trị và tư liệu lịch sử quý báu.
Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám - cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình.
Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử giám lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn Miếu - Hà Nội. Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành cho xây thêm Khuê Văn Các bên cạnh giếng vuông. Như vậy vào đầu thời Nguyễn, Văn miếu Thăng Long đã một lần được sửa sang chỉ còn là Văn Miếu của trấn Bắc Thành, sau đổi thành Văn Miếu Hà Nội. Còn Quốc Tử Giám thì đổi thành học đường của phủ Hoài Đức và sau đó tại khu vực này xây đền Khải thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử.
Đầu năm 1947, thực dân Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay toàn bộ khu Thái Học được xây dựng với diện tích 1530m² trên tổng diện tích 6150m² gồm các công trình kiến trúc chính là Tiền đường, Hậu đường, Tả vu, Hữu vu, nhà chuông, nhà trống được mô phỏng theo kiến trúc truyền thống trên nền đất xưa của Quốc Tử Giám.
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Việt) 1: [Sao chép]
Sao chép!
Văn Miếu được xây dựng từ năm (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông (Đại Việt sử ký toàn thư. Nhà cạnh bản. Khoa học xã hội, Hà Nội, tổ 1, tr.234) chép: "thí thu tháng 8, làm Văn Miếu, đắp tượng, Khổng khó, Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiến, bốn thí cúng tế. Hoàng thái khó đến đấy học." [1]. Như vậy Văn miếu ngoài chức năng thờ các bậc Tiên thánh, Tiên sự của đạo Nho, còn mang chức năng của một trường học Hoàng gia mà học trò đầu tiên là Thái bà Lý Càn Đức, con trai vua Lý Thánh Tông với Nguyên phi Ỷ Lan, lúc đó mới 5 tuổi, đến năm 1072 tức là năm 8 tuổi lên ngôi trở thành vua Lý Nhân TôngNăm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc nên phẫn ở bên cạnh Văn Miếu có Bulgaria coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam. Ban đầu, trường chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc đại quyền quý (nên gọi tên là Quốc khó, người học đầu tiên là hoàng bà Lý Càn Đức). (Việt sử thông phẫn cương mục. Nhà cạnh bản. Văn sử địa. 1957) chép: "Bính Thìn, năm Anh Vũ Chiêu Thắng thứ 1 tháng 4... nhà lập Quốc nên phẫn; tuyển trọng các văn thần lấy những người có văn học, bổ vào đó". Năm 1156, Lý Anh Tông cho sửa lại Văn Miếu và chỉ thờ Khổng khó.Tượng vua Lý Nhân TôngNăm Nguyên Phong thứ 3 1253, vua Trần Thái Tông đổi Quốc nên phẫn thành Quốc Học viện cho mở rộng và thu nhận đoàn con cái các nhà thường dân có sức học cạnh sắc. Chức năng trường Quốc học ngày càng nổi bật hơn chức năng của một nơi tế lễ "Quý QH năm thứ ba(1253)... Tháng 6 lập Quốc Học viện tô tượng Khổng khó, Chu công và Á Thánh, vẽ tượng 72 người hiến tiếng thờ... Tháng 9 xuống chiếu cho các nho người trong nước đến Quốc học viện giảng học tứ thư, lục kinh"(ĐVSKTT). Lấy Phạm Ứng Thần giữ chức Thượng thư kiêm chức Đề điệu Quốc nên viện tiếng trông nom công việc học tổ tại Quốc nên phẫn.Đời Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc nên phẫn Tư nghiệp (hiệu trưởng) và thầy dạy rục truyện của các hoàng khó. Năm 1370 còn mất, được vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng khó.Sang thời tỉnh Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành. Vào năm 1484, Lê Thánh Tông cho dựng bia của những người thi đỗ tiến người từ khoa thi 1442 trở đi (hào trương đã đề ra năm 1442 nhưng chưa thực hiện được). Mỗi khoa, một tấm bia đặt trên lưng rùa. Tới năm đó, nhà Lê đã tổ chức được 12 khoa thi cao cấp, Lê Thánh Tông (1460-1497) đã tổ chức đều đặn cứ ba năm một lần, đúng 12 khoa thi.Không phải khoa thi nào tiến hành xong đều được khắc bia ngay, không phải bia đã dựng thì vĩnh tồn, không hư hỏng, không mất mát. Phần thời có những đợt dựng, dựng lại lớn, như năm 1653 (Thịnh Đức năm thứ nhất, năm 1717 (Vĩnh Thịnh năm thứ 13).Cuối triều Lê, thời Cảnh Hưng, bia vẫn được khắc đều đặn. Dù không còn giữ được đủ bia, nhà công trình điêu khắc giá trị và tư suất lịch sử quý báu.Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc nên phẫn - cơ sở đào chức và giáo dục cao cấp của triều đình.Đời nhà Nguyễn, Quốc nên phẫn lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn Miếu – Hà Nội. Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành cho xây thêm Khuê Văn Các bên cạnh giếng vuông. Như vậy vào đầu thời Nguyễn, Văn miếu Thăng Long đã một lần được sửa sang chỉ còn là Văn Miếu của trấn Bắc Thành, sau đổi thành Văn Miếu Hà Nội. Còn Quốc nên phẫn thì đổi thành học đường của phủ Hoài Đức và sau đó tại khu vực này xây đền Khải thánh tiếng thờ cha mẹ Khổng khó.Đầu năm 1947, thực dân Pháp nào đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay toàn bộ khu Thái Học được xây dựng với diện tích 1530 m² trên tổng diện tích 6150 m² gồm các công trình kiến trúc chính là Tiền đường, đường tỉnh Hậu, Tả vu, Hữu vu, nhà chuông, nhà nón được mô phỏng theo kiến trúc truyền thống trên nền đất xưa của Quốc nên phẫn.
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Việt) 2:[Sao chép]
Sao chép!
Văn Miếu was built from năm (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông (.. Đại Việt sử ký toàn thư Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, tập 1, tr.234) chép: " mùa thu tháng 8, làm Văn Miếu, đắp tượng, Khổng Tử, Chu Công and Tứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử to đấy học. " [1]. Như vậy Văn miếu ngoài chức năng thờ all bậc Tiên thánh, Tiên sư of đạo Nho, còn mang chức năng của one trường học Hoàng gia which học trò đầu tiên is Thái tử Lý Càn Đức, con trai vua Lý Thánh Tông as Nguyên phi Ỷ Lan, lúc then mới 5 tuổi, đến năm 1072 tức is năm 8 tuổi lên ngôi trở thành vua Lý Nhân Tông
năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử Giám out bên cạnh Văn Miếu possible coi here is trường đại học The first out Việt Nam. Ban đầu, trường chỉ dành riêng cho con vua and the con bậc đại quyền quý (be gọi tên là Quốc Tử, người học initial is hoàng tử Lý Càn Đức). (... Việt sử thông giám cương mục Nhà xuất bản Văn sử địa 1957) chép: "Bính Thìn, năm Anh Vũ Chiêu Thắng thứ 1 tháng 4 ... lập nhà Quốc Tử Giám; tuyển trong all văn thần lấy users have văn học, bổ vào which ". Năm 1156, Lý Anh Tông cho sửa lại Văn Miếu and only thờ Khổng Tử.

Tượng vua Lý Nhân Tông
Năm Nguyên Phong thứ 3 1253, vua Trần Thái Tông đổi Quốc Tử Giám thành Quốc Học viện cho expanded and thu nhận cả con cái all nhà thường dân have sức học xuất sắc. Chức năng trường Quốc học ngày as nổi bật than chức năng of an nơi tế lễ "Quý Sửu năm thứ ba (1253) ... Tháng 6 lập Quốc Học viện tô tượng Khổng Tử, Chu công and Á Thánh, vẽ tượng 72 người hiền for thờ ... Tháng 9 xuống chiếu cho the nho sĩ trong nước to Quốc học viện giảng học tứ thư, lục kinh "(ĐVSKTT). Lấy Phạm Ứng Thần stored chức Thượng thư kiêm chức Đề điệu Quốc Tử viện to trông nom công việc học tập tại Quốc Tử Giám.
Đời Trần Minh Tông, Chu Văn An been cử làm quan Quốc Tử giám Tư nghiệp (hiệu trưởng) and thầy dạy trực tiếp of the hoàng tử. Năm 1370 ông mất, be vua Trần Nghệ Tông cho thờ out Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử.
Sang thời Hậu Lê, Nho giáo much thịnh hành. Vào năm 1484, Lê Thánh Tông cho dựng bia of the following người thi đỗ tiến sĩ từ khoa thi 1442 trở đi (chủ trương was đề ra năm 1442 but not yet been implemented). Mỗi khoa, một tấm bia đặt trên lưng rùa. Tới năm that, nhà Lê was tổ chức been 12 khoa thi cao cấp, Lê Thánh Tông (1460-1497). Have tổ chức will Đan cứ ba năm once, do not 12 khoa thi
Not khoa thi nào tiến hành xong will be khắc bia ngay, does not have bia dựng thì vĩnh tồn, can hư hỏng, do not mất mát. Từng thời with those đợt dựng, dựng lại lớn, such as năm 1653 (Thịnh Đức năm thứ nhất, năm 1717 (Vĩnh Thịnh năm thứ 13).
Cuối triều Lê, thời Cảnh Hưng, bia activities are khắc will Đàn. Dù no longer stored been đủ bia, nhà công trình điêu khắc giá trị and tư liệu lịch sử quý báu.
Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám -. cơ sở đào tạo and giáo dục cao cấp of triều đình
Đời nhà Nguyễn, . Quốc Tử giám lập tại Huế Năm 1802, vua Gia Long ấn định here is Văn Miếu -. Hà Nội Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành cho xây thêm Khuê Văn Các bên cạnh giếng vuông Như vậy vào đầu thời Nguyễn, Văn miếu. Thăng Long was once was sửa sang chỉ còn is Văn Miếu of trấn Bắc Thành, sau đổi thành Văn Miếu Hà Nội. còn Quốc Tử Giám thì đổi thành học đường of phủ Hoài Đức and then tại khu vực this xây đền Khải thánh to thờ cha mẹ Khổng Tử.
Đầu năm 1947, thực dân Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền with the hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay toàn bộ khu Thái Học was built for diện tích 1530m² trên tổng diện tích 6150m² contain the công trình kiến trúc chính is Tiền đường, Hậu đường, Tả vu, Hữu vu, nhà chuông, nhà trống been mô phỏng theo kiến trúc truyền thống trên nền đất xưa of Quốc Tử Giám.
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2025 I Love Translation. All reserved.

E-mail: