8. Kết luận
Chúng tôi đã lập luận rằng CBT, như một lý thuyết về
thực hành lâm sàng, là đồng dư với công tác xã hội val-
ues và quan điểm công bằng xã hội. CBT làm
điều này bằng cách thúc đẩy sự tự tôn trọng thông qua các triển
ment của vô điều kiện tự chấp nhận; việc áp dụng một
quan điểm mạnh mà công nhận khả năng của khách hàng
thay đổi và chuyên môn mà họ có về
bản thân; thúc đẩy một điều trị hợp tác
mối quan hệ tôn trọng và tìm ra trong- khách hàng
đặt và tham gia vào tất cả các bước của quá trình;
trao quyền cho khách hàng để trở thành nhân tố tích cực trong
giải quyết các vấn đề của họ; và thừa nhận
tác động của bối cảnh xã hội của một người về niềm tin cốt lõi
và những biểu đồ, cũng như bản chất áp bức của
những thành kiến thu và kỳ thị. Mặc dù quá mức
tất cả các thực hành của CBT tập trung vào cá nhân hoặc
thực hành ở cấp vi mô, nó nhận ra rằng một phần của một xạ
cảm giác người quốc của lòng tự trọng và lợi ích
là một cảm giác lành mạnh của lợi ích xã hội. Điều này cảm giác của
lợi ích xã hội buộc các cá nhân để bảo vệ
quyền của những người khác và làm việc hướng tới sự thịnh vượng
của cộng đồng một người. Một số tác giả đã ar-
gued rằng nhiệm vụ công bằng xã hội trong công tác xã hội
có thể được thực hiện ở cấp độ vi mô hoặc lâm sàng
thực hành (Jacobson, 2009; Parker; 2003; Salas et al,.
2010; Swenson, 1998; Wakefield, 1988a, 1988b).
Ở đây, chúng tôi đã lập luận rằng CBT, một thuyết vi mô
ry thực hành, tập trung giúp đỡ các cá nhân
tạo ra sự tự chấp nhận và lòng tự trọng, là một tốt
phù hợp với các giá trị công tác xã hội và với Rawlsian
xem công lý như mặc nhiên công nhận bởi Wakefield (1988a,
1988b).
đang được dịch, vui lòng đợi..
