Chùa Giác Lâm (chữ Hán 覺林寺: Giác Lâm tự) còn có các tên khác: Cẩm Sơn, dịch - Chùa Giác Lâm (chữ Hán 覺林寺: Giác Lâm tự) còn có các tên khác: Cẩm Sơn, Việt làm thế nào để nói

Chùa Giác Lâm (chữ Hán 覺林寺: Giác Lâ

Chùa Giác Lâm (chữ Hán 覺林寺: Giác Lâm tự) còn có các tên khác: Cẩm Sơn, Sơn Can[1] hay Cẩm Đệm; là một trong những ngôi chùa cổ nhất của Thành phố Hồ Chí Minh. Đây chính là tổ đình của phái Thiền Lâm Tế tông ở miền Nam Việt Nam [2].

Chùa tọa lạc tại số 565 (số cũ 118) đường Lạc Long Quân, thuộc phường 10, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, và đã được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa - Thông tin) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia của Việt Nam theo quyết định số 1288-VH/QĐ ngày 16 tháng 11 năm 1988.

Mục lục [ẩn]
1 Giới thiệu sơ lược
2 Kiến trúc
3 Hiện vật quý
4 Hình ảnh
5 Sách tham khảo chính
6 Chú thích
Giới thiệu sơ lược[sửa | sửa mã nguồn]
Chùa được cư sĩ Lý Thụy Long, người Minh Hương, quyên tiền xây dựng vào mùa xuân năm Giáp Tý (1744) đời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Ban đầu chùa có tên là Sơn Can (sơn là núi, cang là gò nông), về sau còn được gọi là Cẩm Sơn do chùa tọa lạc trên gò Cẩm Sơn. Ngoài ra, chùa còn có tên là Cẩm Đệm vì cư sĩ Thụy Long có tên riêng là Cẩm, chuyên nghề đan đệm bán, người địa phương gọi là ông Cẩm Đệm [3].

Từ năm 1744 đến năm 1774, chưa rõ có vị tăng sĩ nào đến trụ trì chùa hay không, vì thiếu tài liệu [4]. Chỉ biết vào năm 1774, Thiền sư Phật Ý-Linh Nhạc (trụ trì chùa Từ Ân) đã cử đệ tử của mình là Thiền sư Tổ Tông-Viên Quang (gọi tắt là Viên Quang) về trụ trì chùa, đồng thời đổi tên chùa thành Giác Lâm.

Dưới thời thiền sư Viên Quang, chùa Giác Lâm trở thành một trung tâm đào tạo về kinh điển, giới luật đầu tiên cho chư tăng ở Gia Định và cả Nam Bộ. Đến năm 1873, dưới sự trụ trì của Thiền sư Minh Khiêm, chùa còn là nơi in ấn, sao chép kinh sách, khắc bản gỗ kinh, luật và diễn Nôm một số sách Phật giáo [5].

Danh sĩ Trịnh Hoài Đức trong quyển Gia Định thành thông chí đã miêu tả cảnh chùa lúc bấy giờ như sau: "Chùa tọa lạc trên gò Cẩm Sơn, cách phía Tây lũy Bán Bích ba dặm..., cây cao như rừng, hoa nở tựa gấm, sáng chiều mây khói nổi bay quanh quất, địa thế tuy nhỏ mà nhã thú!"...

Kiến trúc[sửa | sửa mã nguồn]

Tháp Xá lợi của chùa Giác Lâm
Chùa đã được trùng tu lớn ba lần. Thiền sư Tổ Tông-Viên Quang cho xây lại chùa lần thứ nhất vào năm 1798[6]–1804. Đến năm 1906–1909, Hoà thượng Hồng Hưng với sự giúp sức của Hoà thượng Như Phòng, đã cho tôn tạo lại ngôi chùa một lần nữa. Các sự kiện này được ghi lại trong đôi liễn mừng lạc thành, nay còn treo trong chánh điện. Đầu năm 1999, chùa hoàn thành đợt trùng tu lần thứ ba.


Chùa Giác Lâm nhìn chính diện
Chùa Giác Lâm hiện nay có lối kiến trúc chữ Tam (Ξ) gồm ba dãy nhà ngang nối liền nhau (không kể các nhà phụ): chính điện, giảng đường và nhà trai (còn gọi là nhà Ông Giám). Chùa nguyên thủy không có cổng tam quan (cổng tam quan chỉ mới được xây dựng vào năm 1955), mái chùa gồm 4 vạt và các sống mái đều thẳng. Năm 2007, khởi công xây dựng khu giảng đường và tăng xá (phía bên phải chùa - theo hướng nhìn từ trong ra).

Chính điện với kiểu nhà dân gian truyền thống một gian hai chái, bốn cột chính hay còn gọi là tứ trụ. Bên trong điện khá rộng và sâu, có 56 cột to hơn vòng tay ôm màu nâu sẫm. Cột nào cũng được chạm khắc câu đối, thiếp vàng công phu. Giữa các hàng cột là các cửa võng, cũng được thiếp vàng, chạm trổ các đề tài trang trí truyền thống như tứ linh, tứ quý, hoa điểu....

Trong chính điện bày trí theo kiểu "tiền Phật, hậu Tổ". Phía trước chính điện thờ các tượng A Di Đà, Thích Ca, Di Lặc. Hai bàn thờ hai bên phải trái, có tượng Quán Thế Âm, Đại Thế Chí. Ngoài ra, ở đây còn có tượng cửu long, dọc hai bên tường có bộ tượng Thập Bát La Hán, bộ tượng Thập Điện Diêm Vương, tượng Tổ Bồ Đề Đạt Ma và tượng Long Vương.

Đằng sau chính điện là bàn thờ Tổ, thờ các vị Hòa thượng đã trụ trì tại chùa Giác Lâm. Đối diện với bàn thờ Tổ là các bàn thờ: Phật Chuẩn Đề, Phật A Di Đà, và sau cùng là bàn thờ Thập Điện Diêm Vương. Ở gian này, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, được dùng làm cơ sở hậu cần, nuôi chứa cán bộ, làm công tác trinh sát nội thành [7].

Trước chùa là bảo tháp xá lợi gồm 7 tầng hình lục giác. Tháp được khởi công xây dựng từ năm 1970 theo bản vẽ của kiến trúc sư Vĩnh Hoằng, đến năm 1975 thì tạm ngưng cho đến 1993 mới được tiếp tục. Từ năm 1994 tầng 7 của tháp thờ Xá Lợi Phật.


Một số pho tượng trong chùa Giác Lâm
Bên trái cùa chùa là khu mộ tháp của các vị hòa thượng đã trụ trì ở đây, trong số ấy có tháp Tổ Phật Ý-Linh Nhạc, tháp Thiền sư Tổ Tông-Viên Quang. Ngoài ra, trước sân chùa có đặt tượng Quan Thế Âm Bồ Tát dưới bóng cây bồ đề. Cây này do Đại đức Narada mang từ Sri Lanka (Tích Lan) sang trồng vào ngày 18 tháng 6 năm 1953 [8].

Hiện vật quý[sửa | sửa mã nguồn]
Trong chùa có 113 pho tượng cổ, chủ yếu là tượng gỗ, chỉ có 7 tượng đồng. Có nhiều tượng có giá trị như: Tượng Phật A Di Đà, Phật Thích Ca, Di Lặc Bồ Tát; Thế Chí Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, bộ tượng Cửu Long (đúc bằng đồng), bộ tượng Mười Tám Vị La Hán, tượng Thập Điện Diêm Vương, tượng Tổ Sư Đạt Ma, tượng Long Vương, v.v...

Trên các cột chính của chùa đều có khắc câu đối (gồm 86 câu) thếp vàng công phu. Đáng chú ý có câu đối của Hiệp trấn Trịnh Hoài Đức (treo ở gian thờ Tổ) và câu đối của Mộc Ân đệ tử phụng cúng vào năm Gia Long thứ 3 (1804). Ngoài ra ở đây còn có 9 bao lam, 19 hoành phi, một bàn thờ cổ và đồ thờ cổ [9].
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Việt) 1: [Sao chép]
Sao chép!
Chùa Tháp Lâm (chữ chữ Hán 覺林寺: tháp Lâm tự) còn có các tên ông: Cẩm Sơn, Sơn có thể [1] hay Cẩm Đệm; là một trong những ngôi chùa cổ nhất của Thành phố Hồ Chí Minh. Đây chính là tổ đình của phái Thiền Lâm Tế tông ở miền Nam Việt Nam [2].Chùa tọa lạc tại số 565 (số cũ 118) đường Lạc Long Quân, thuộc phường 10, trực Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, và đã được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa - Thông tin) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia của Việt Nam theo quyết định số 1288-VH/QĐ ngày 16 tháng 11 năm 1988.Mục lục [ẩn] 1 Giới thiệu sơ lược2 Kiến trúc3 Hiện vật quý4 chuyển ảnh5 Sách tham khảo chính6 Chú thíchGiới thiệu sơ lược [sửa | sửa mã nguồn]Chùa được cư người Lý Thụy dài, người Minh Hương, quyên tiền xây dựng vào thí xuân năm Giáp Tý (1744) đời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Ban đầu chùa có tên là có thể Sơn (sơn là núi, cang là gò nông), về sau còn được gọi là Cẩm Sơn làm chùa tọa lạc trên gò Cẩm Sơn. Ngoài ra, chùa còn có tên là Cẩm Đệm vì cư người Thụy Long có tên riêng là Cẩm, chuyên nghề đan đệm bán, người địa phương gọi là còn Cẩm Đệm [3].Từ năm 1744 đến năm 1774, các chưa rõ có vị tăng người nào đến trụ trì chùa hay không, vì thiếu tài suất [4]. Chỉ biết vào năm 1774, Thiền sự đầu Ý-Linh Nhạc (trụ trì chùa Từ Ân) đã cử đệ nên của mình là Thiền sự Tổ Tông-Viên Quang (gọi tắt là Viên Quang) về trụ trì chùa, đồng thời đổi tên chùa thành tháp Lâm.Dưới thời thiền sự Viên Quang, chùa tháp Lâm trở thành một trung tâm đào chức về kinh điển, giới luật đầu tiên cho chư tăng ở Gia định và đoàn Nam Bộ. Đến năm 1873, dưới sự trụ trì của Thiền sự Minh Khiêm, chùa còn là nơi tại ấn, sao chép kinh sách, khắc bản gỗ kinh, luật và lại Nôm một số sách Phật giáo [5].Danh người Trịnh Hoài Đức trong quyển Gia định thành thông chí đã miêu tả cảnh chùa lúc bấy giờ như sau: "Chùa tọa lạc trên gò Cẩm Sơn, cách phía Tây lũy Bán Bích ba dặm..., cây cao như rừng, hoa nở tựa gấm, dự chiều mây khói nổi bay quanh quất, địa thế tuy nhỏ mà nhã thú!" ...Kiến trúc [sửa | sửa mã nguồn]Tháp Xá lợi của chùa tháp LâmChùa đã được trùng tu lớn ba lần. Thiền sự Tổ Tông-Viên quảng cho xây lại chùa lần thứ nhất vào năm 1798 [6] –1804. Đến năm 1906-1909, Hoà thượng Hồng Hưng với sự giúp sức của Hoà thượng Như Phòng, đã cho tôn chức lại ngôi chùa một lần nữa. Các sự kiện này được ghi lại trong đôi tiên mừng lạc thành, nay còn treo trong chánh điện. Đầu năm 1999, chùa hoàn thành đợt trùng tu lần thứ ba.Chùa Tháp Lâm nhìn chính diệnChùa Tháp Lâm hiện nay có lối kiến trúc hỗ Tam (Ξ) gồm ba dãy nhà ngang nối liền nội (không kể các nhà phụ): chính điện, giảng đường và nhà trai (còn gọi là nhà còn táng). Chùa nguyên thủy không có cổng tâm quan (cổng tâm quan chỉ mới được xây dựng vào năm 1955), mái chùa gồm 4 vạt và các sống mái đều thẳng. Năm 2007, khuyến công xây dựng khu giảng đường và tăng xá (phía bên phải chùa - theo hướng nhìn từ trong ra).Chính điện với kiểu nhà dân gian truyền thống một gian Hải chái, bốn cột chính hay còn gọi là tứ trụ. Bên trong điện khá rộng và sâu, có 56 cột để hơn vòng tay ôm màu nâu sẫm. Cột nào cũng được chạm khắc câu đối, thiếp vàng công phu. Giữa các hàng cột là các cửa võng, cũng được thiếp vàng, chạm trổ các đề tài trang trí truyền thống như tứ linh, tứ quý, hòa điểu...Trong chính điện bày trí theo kiểu "tiền đầu, tỉnh hậu Tổ". Phía trước chính điện thờ các tượng A Di Đà, Thích Ca, Di Lặc. Hai bàn thờ hai bên phải trái, có tượng Quán Thế đảm, đại Thế Chí. Ngoài ra, ở đây còn có tượng cửu long, dọc hai bên tường có bộ tượng Thập Bát La chữ Hán, bộ tượng Thập tách Diệm Vương, tượng Tổ Bồ Đề di Ma và tượng dài Vương.Đằng sau chính điện là bàn thờ Tổ, thờ các vị Hòa thượng đã trụ trì tại chùa tháp Lâm. Đối diện với bàn thờ Tổ là các bàn thờ: Phật Chuẩn Đề, Phật A Di Đà, và sau cùng là bàn thờ Thập tách Diệm Vương. Ở gian này, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, được dùng làm cơ sở tỉnh hậu cần, nuôi chứa quý bộ, làm công NXB trinh sát nội thành [7].Trước chùa là bảo tháp xá lợi gồm 7 tầng chuyển lục tháp. Tháp được khuyến công xây dựng từ năm 1970 theo bản vẽ của kiến trúc sự Vĩnh Hoằng, đến năm 1975 thì Nina ngưng cho đến năm 1993 mới được truyện tục. Từ năm 1994 tầng 7 của tháp linh Xá Lợi Phật.Một số pho tượng trong chùa tháp LâmBên trái cùa chùa là khu mộ tháp của các vị hòa thượng đã trụ trì ở đây, trong số ấy có tháp Tổ đầu Ý-Linh Nhạc, tháp Thiền sự Tổ Tông-Viên quảng. Ngoài ra, trước sân chùa có đặt tượng Quán Thế đảm Bồ Tát dưới bóng cây bồ đề. Cây này làm đại đức Narada mang từ Sri Lanka (Tích Lan) sang trồng vào ngày 18 tháng 6 năm 1953 [8].Hiện vật quý [sửa | sửa mã nguồn]Trong chùa có 113 pho tượng cổ, hào yếu là tượng gỗ, chỉ có 7 tượng đồng. Có nhiều tượng có giá trị như: Tượng Phật A Di Đà, Phật Thích Ca, Di Lặc Bồ Tát; Thế Chí Bồ Tát, Quan Thế đảm Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, bộ tượng Cửu Long (đúc bằng đồng), bộ tượng Mười Tám Vị La chữ Hán, tượng Thập tách Diệm Vương, tượng Tổ sự di Ma, tượng dài Vương, v.v...Trên các cột chính của chùa đều có khắc câu đối (gồm 86 câu) thếp vàng công phu. Đáng chú ý có câu đối của Hiệp trấn Trịnh Hoài Đức (treo ở gian linh Tổ) và câu đối của Mộc Ân đệ nên phụng cúng vào năm Gia Long thứ 3 (1804). Ngoài ra ở đây còn có 9 bảo lâm, 19 hoành phi, một bàn thờ cổ và đồ linh tại [9].
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Việt) 2:[Sao chép]
Sao chép!
Chùa Giác Lâm (chữ Hán覺林寺: Giác Lâm tự) còn have different name: Cẩm Sơn, Sơn Can [1] hay Cẩm Đệm; is one of the following ngôi chùa cổ nhất of Thành phố Hồ Chí Minh. Đây chính is tổ đình of phái Thiền Lâm Tế tông at miền Nam Việt Nam [2]. Chùa tọa lạc tại số 565 (số cũ 118) đường Lạc Long Quân, thuộc phường 10, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, and have been Bộ Văn hóa (nay is Bộ Văn hóa - Thông tin) công nhận di tích lịch is sử - văn hóa quốc gia của Việt Nam theo quyết định số 1288-VH / QĐ ngày 16 tháng 11 năm 1988. Mục lục [ ẩn] 1 Giới thiệu sơ lược 2 Kiến trúc 3 Hiện vật quý 4 Hình ảnh 5 Sách tham khảo chính 6 Chú thích Giới thiệu sơ lược [sửa | sửa mã nguồn] Chùa be cư sĩ Lý Thụy Long, người Minh Hương, quyên tiền xây dựng vào mùa xuân năm Giáp Tý (1744) đời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Ban đầu chùa called is Sơn Can (sơn is núi, cang is gò nông), về sau còn called is Cẩm Sơn làm chùa tọa lạc trên gò Cẩm Sơn. Ngoài ra, chùa also tên là Cẩm Đệm vì cư sĩ Thụy dài called riêng is Cẩm, chuyên nghề đan đệm bán, người địa phương gọi is ông Cẩm Đệm [3]. Từ năm 1744 to năm 1774, chưa rõ has vị Augmented sĩ nào to trụ trì chùa hay không, vì thiếu tài liệu [4]. Chỉ biết vào năm 1774, Thiền sư Phật Ý-Linh Nhạc (trụ trì chùa Từ Ân) đã cử đệ tử của mình là Thiền sư Tổ Tông-Viên Quang (gọi tắt is Viên Quang) về trụ trì chùa, đồng thời đổi tên chùa Giác Lâm thành. Dưới thời thiền sư Viên Quang, chùa Giác Lâm become one trung tâm đào tạo về kinh điển, giới luật đầu tiên cho chư grow out Gia Định and cả Nam Bộ. Đến năm 1873, below sự trụ trì of Thiền sư Minh Khiêm, chùa còn is nơi in ấn, sao chép kinh sách, khắc bản gỗ kinh, luật and diễn Nôm some of sách Phật giáo [5]. Danh sĩ Trịnh Hoài Đức in quyển Gia Định thành thông chí miêu tả was cảnh chùa now như sau: "Chùa tọa lạc trên gò Cẩm Sơn, cách Phía Tây lũy Bán Bích Bá Đạm ..., cây cao such as rừng, hoa nở tựa gấm, sáng chiều mây khói nổi bay quanh quất, địa thế tuy nhỏ mà nhã thú "...! Kiến trúc [sửa | sửa mã nguồn] Tháp Xá lợi of chùa Giác Lâm Chùa has been trùng tu lớn ba lần. Thiền sư Tổ Tông-Viên Quang cho xây lại chùa lần thứ nhất vào năm 1798 [6] -1804. Đến năm 1906-1909, Hoà thượng Hồng Hưng as sự giúp sức of Hoà thượng Như Phòng, đã cho tôn tạo lại ngôi chùa once nữa. Các sự kiện This is recorded within đôi LIÊN mừng lạc thành, nay còn treo in chánh điện. Đầu năm 1999, chùa hoàn thành đợt trùng tu lần thứ ba. Chùa Giác Lâm nhìn chính diện Chùa Giác Lâm hiện nay has lối kiến trúc chữ Tam (Ξ) ba gồm ngày nhà ngang nối liền nhau (do not Kể its nhà phụ): chính điện, giảng đường and nhà trai (còn gọi is nhà Ông Giám). Chùa nguyên thủy do not have cổng tam quan (cổng tam quan chỉ mới xây dựng vào been năm 1955), mái chùa gồm 4 vạt and other sống mái will thẳng. Năm 2007, khởi công xây dựng khu giảng đường and grow xá. (Phía right chùa - theo hướng nhìn từ in ra) Chính điện with the kiểu nhà dân gian truyền thống one gian hai chai, bốn cột chính hay còn gọi is tứ trụ . Inside điện khá rộng and sâu, cỏ 56 cột để Hòn vòng tay ôm màu nâu sâm. Cột nào cũng be chạm khắc câu đối, thiếp vàng công phu. Between hàng cột is the cửa võng, also been thiếp vàng, chạm trổ its đề tài trang trí truyền thống such as tứ linh, tứ quý, hoa điểu .... Trọng chính điện bày trí theo kiểu "tiền Phật, hậu Tổ" . Phía trước chính điện thờ the tượng A Di Đà, Thích Ca, Di Lặc. Hai lệnh cấm thờ hai right trái, has tượng Quán Thế Âm, Đại Thế Chí. Ngoài ra, out đây also tượng cửu long, dọc hai bên tường has bộ tượng Thập Bát La Hán, bộ tượng Thập Điện Diêm Vương, tượng Tổ Bồ Đề Đạt Ma and tượng dài Vương. Đằng sau chính điện is bàn thờ Tổ, thờ the vị Hòa thượng trụ trì was at chùa Giác Lâm. Đối diện for bàn thờ Tổ is the bàn thờ: Phật Chuẩn Đề, Phật A Di Đà, and sau cùng is bàn thờ Thập Điện Diêm Vương. Ở this gian, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp and chống Mỹ, used as cơ sở hậu cần, nuôi containing cán bộ, làm công tác trinh sát nội thành [7]. Trước chùa is bảo tháp xá lợi gồm 7 tầng hình giác lục. Tháp be khởi công xây dựng từ năm 1970 theo bản vẽ of kiến trúc sư Vĩnh Hoằng, đến năm 1975 thì tạm suspend until 1993 mới be continue. Từ năm 1994 tầng 7 of tháp thờ Xá Lợi Phật. Một số pho tượng in chùa Giác Lâm Bên trái Cửa chùa is khu mộ tháp of the vị hòa thượng was trụ trì here, in số ấy has tháp Tổ Phật Ý-Linh Nhạc , tháp Thiền sư Tổ Tông-Viên Quang. Ngoài ra, trước sân chùa has đặt tượng Quan Thế Âm Bồ Tát below bóng cây bồ đề. Cây Nay làm Đại đức Narada mang từ Sri Lanka (Tích Lan) sang trồng vào ngày 18 tháng 6 năm 1953 [8]. Hiện vật quý [sửa | sửa mã nguồn] Trong chùa has 113 pho tượng cổ, chủ yếu is tượng gỗ , only 7 tượng đồng. Có nhiều tượng has values ​​as: Tượng Phật A Di Đà, Phật Thích Ca, Di Lặc Bồ Tát; Thế Chí Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, bộ tượng Cửu Long (đúc bằng đồng), bộ tượng Mười Tám Vị La Hán, tượng Thập Điện Diêm Vương, Tượng Tổ Sư Đạt Ma, Tường Long Vương , vv .. Trên columns chính of chùa will have khắc câu đối (gồm 86 câu) Thep vàng công phu. Đáng chú ý has câu đối of Hiệp trấn Trịnh Hoài Đức (treo out gian thờ Tổ) and câu đối of Mộc Ân đệ tử phụng cúng vào năm Gia Long thứ 3 (1804). Ngoài ra out đây also 9 bao lam, hoành phi 19, one bàn thờ cổ and đồ thờ cổ [9].











































đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2024 I Love Translation. All reserved.

E-mail: