Các tài liệu cho thấy rằng đầu tư nước ngoài lớn hơn có thể dẫn đến sự ổn định tài chính và kinh tế vĩ mô thông qua làm mịn tiêu thụ, tăng tính thanh khoản, cải thiện năng suất nhân tố, và thúc đẩy đầu tư trong nước (Agenor, 2003). Một số nghiên cứu tiếp tục cho thấy những lợi ích tiềm năng của đầu tư nước ngoài gián tiếp và làm việc thông qua các cải tiến trong các biến chính sách cơ cấu, thể chế, và kinh tế vĩ mô (Kose et al, 2009;. Lane và Milesi-Ferretti, 2004). Đầu tư nước ngoài lớn hơn cho phép nước để mượn trong thời gian tồi tệ và cho vay trong thời gian tốt, giảm biến động trong nhu cầu tiêu dùng. By giảm các vấn đề gây ra bởi tỷ lệ tiết kiệm thấp ở một số nước đang phát triển, đầu tư nước ngoài lớn hơn có thể tăng vốn vật chất của mỗi công nhân và do đó cải thiện cả về thu nhập quốc gia và tiêu chuẩn sống. Đầu tư nước ngoài lớn hơn cũng có thể đẩy nhanh quá trình phát triển và hiệu quả của thị trường tài chính trong nước, dẫn đến năng suất nhân tố cao (Levine, 2001). Đặc biệt, việc tăng số lượng các ngân hàng nước ngoài trong nền kinh tế trong nước cải thiện chất lượng và tính sẵn sàng của các dịch vụ tài chính. Nó cũng góp phần vào sự ổn định của hệ thống tài chính trong nước bằng cách cung cấp nơi trú ẩn với người gửi tiền ký quỹ thay thế trong nước, do đó ngăn cản chuyến bay vốn thông qua việc chuyển giao các tài sản ở nước ngoài. Goldstein và Turner (2004) lập luận rằng các nước mà có thể thu hút đầu tư nước ngoài có thể tốt hơn để đối mặt với những thách thức của toàn cầu hóa tài chính. Obstfeld (1998) lưu ý rằng, trong một nỗ lực để thu hút đầu tư nước ngoài, các nước có chính sách kinh tế vĩ mô có kỷ luật hơn bằng cách giảm tần số của chính sách sai lầm.
đang được dịch, vui lòng đợi..
