xác định, gắn bó và tin tưởng (Morgan & Hunt, 1994; Gruen et al, 2000; Bansal et al, 2004; Fullerton, 2005). Tầm quan trọng của congruency của tổ chức và mục tiêu cá nhân được nhấn mạnh trong một vài định nghĩa của sự cam kết tình cảm. Hội trường et al, (1970, p.176-177) định nghĩa nó như là "một quá trình mà các mục tiêu của tổ chức và những người của cá nhân ngày càng trở nên tích hợp hoặc đồng dư", trong khi Mowday et al, (1982: p.27) định nghĩa nó là "sức mạnh tương đối của nhận dạng của một cá nhân với và tham gia vào một tổ chức cụ thể. Cam kết bản quy phạm liên quan đến cảm xúc của nghĩa vụ hay bổn phận đối với một thực thể. Weiner, (1982, p.421) định nghĩa bản quy phạm cam kết là "toàn bộ những áp lực bản quy phạm nội để hành động một cách mà đáp ứng các mục tiêu và lợi ích của tổ chức", và lập luận rằng bản quy phạm cam kết với các tổ chức phát triển trong một quá trình xã hội cho người mới đến tổ chức. Meyer & Allen (1991) lập luận rằng cam kết thúc đẩy bản quy phạm cá nhân để hành xử một cách thích hợp và làm những gì là đúng cho tổ chức. Trong một bài báo sau (Meyer & Allen, 1997), họ cũng cho thấy cam kết của bản quy phạm phát triển trên cơ sở của một cụ thể loại hình đầu tư mà tổ chức làm trong một nhân viên đó là khó khăn để đền đáp lại. Cam kết tiếp tục đề cập đến một vị trí trong đó một trong những đối tác đến các mối quan hệ, hoặc là một C2B, B2B hoặc nhân viên cảnh / sử dụng lao động, đang bị ràng buộc để họ đối tác mối quan hệ bởi vì hoặc nó là khó khăn để có được ra khỏi các mối quan hệ, có lẽ vì chi phí kết hợp với cảnh, họ cảm nhận được vài lựa chọn thay thế bên ngoài các mối quan hệ hiện tại hoặc cả hai (Kanter, 1968). Việc xây dựng có nguồn gốc của nó trong nền kinh tế chi phí chuyển đổi, tâm lý và sự khan hiếm của các lựa chọn thay thế (Gruen et al, 2000; Bansal et al, 2004; Fullerton, 2005). Trong một thời gian dài, Meyer & Allen (1984, 1991; Meyer et al, 1993) xác định cam kết theo cách như vậy mà nó bao hàm một quá trình hành động
đang được dịch, vui lòng đợi..
