Các yếu tố ảnh hưởng tiềm năng liên quan đến ý định hành vi
tiết kiệm được tương tự như của các hành vi tiết kiệm, với những
trường hợp ngoại lệ sau đây: 1) Hai biến, đại học thế hệ đầu tiên
tình trạng học sinh và liên kết hôn nhân cho thấy tình trạng của cha mẹ
với hành vi tiết kiệm nhưng không hiển thị các hiệp hội với
các hành vi có ý định tiết kiệm; 2) Hai biến không hiển thị
các hiệp hội với các hành vi nhưng hiển thị các hiệp hội tiết kiệm
với ý định hành vi tiết kiệm. Một mức độ cao hơn của rủi ro
và ít thời gian dành cho việc quản lý tài chính có liên quan
với một mức độ cao hơn về ý định để thực hiện các hành vi tiết kiệm;
và 3) Một biến cho hiệu ứng ngược lại. So với
những người khác, sinh viên chuyển tiếp có nhiều khả năng để thực hiện tiết kiệm
hành vi nhưng ít có khả năng để bày tỏ ý định để thực hiện
các hành vi.
> Hành vi tín dụng Rủi ro
tín dụng Rủi ro hành vi được xác định bởi sáu chỉ số: có
ba hoặc thẻ tín dụng nhiều hơn (9 phần trăm của mẫu), sử dụng
thẻ tín dụng thường xuyên (một vài lần một ngày hay một tuần) (32
phần trăm), có nợ thẻ tín dụng (68 phần trăm), đến trễ trong
thanh toán nợ thẻ tín dụng (5 phần trăm), không bao giờ hoặc đôi khi
không thanh toán đầy đủ số dư thẻ tín dụng (39 phần trăm), và
hầu như luôn luôn hoặc đôi khi maxing ra các giới hạn thẻ tín dụng
(20 phần trăm). Dựa trên các xét nghiệm Chi-square, các biến sau đây
cho thấy các hiệp hội với bốn hoặc nhiều rủi ro hơn các hành vi:
Học lớp đứng có các hiệp hội tích cực với sáu
hành vi nguy cơ trừ các hành vi chậm nộp. Học sinh
với đứng lớp học cao hơn, đặc biệt là người cao niên, là
nhiều khả năng tham gia vào các hoạt động. Con số 6-11 trình bày
các mô hình, trong đó cần quan tâm quản lý đại học
và giáo dục
đang được dịch, vui lòng đợi..