Đồng thời thực hiện bắt buộc của IFRS tái chút hỗ trợ đón nhận từ những người trả lời khảo sát. Trong hạng mục riêng biệt của hoạt động kinh doanh, ít hơn 50% số người trả lời cho rằng IFRS nên được uỷ quyền cho các tổ chức đầu tư nước ngoài (46%), 43% đối với các công ty niêm yết công khai và thấp hơn 41% cho các ngân hàng và tài chính các thể chế. Chỉ cần một chút hơn one- fi fth (21%) đã thấy IFRS thông qua như là một thay thế cho VAS về tiêu chuẩn bắt buộc đối với tất cả các đơn vị báo cáo. Phần lớn sự hỗ trợ cho việc áp dụng bắt buộc IFRS đến từ những người trả lời đã được đại diện cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài hoặc công ty niêm yết công khai và đặc biệt là từ các công ty quốc tế mà đã được tuân thủ theo IFRS.
Trong hình. 2, khoảng hai phần ba số người được hỏi bày tỏ sự đồng cao hơn về cách tiếp cận so le (gence hoán cải hoặc thích ứng) so với một vụ nổ lớn (full con nuôi). Đặc biệt, những người được hỏi cảm nhận sự hội tụ cận Cách tiếp, đó là, giới thiệu tiêu chuẩn IFRS-by-tiêu chuẩn và cuối cùng kết thúc với một hệ thống kế toán Việt Nam tương đương với IFRS, là tối ưu (65%). Cách tiếp cận thích ứng, đó là việc áp dụng có chọn lọc một số IFRS, và sửa đổi, điều chỉnh các tiêu chuẩn cho phù hợp với bối cảnh Việt Nam-ese, cũng được xem như là một phương pháp tiếp cận thông qua khuyến cáo của gần hai phần ba số người được hỏi (61%) . Ngược lại, một phần ba số người được hỏi (31%) trọng đón nhận đầy đủ IFRS thông qua như là cách tiếp cận tốt nhất.
phản ứng khác đạo đóng góp ý kiến cụ thể vào quá trình nhận con nuôi.
"[IFRS] nên [được] bắt buộc đối lớn hoặc các công ty đa quốc gia. Các doanh nghiệp cần thời gian chuyển tiếp và nên là tự nguyện chỉ cho các công ty vừa và nhỏ. Trong thực tế, [IFRS báo cáo] là quá tốn kém và thời gian suming dựng, do đó nó không phải là cần thiết [cho SME] "(R716 2012).
Vai trò quan trọng của các điều Việt trong quá trình nhận con nuôi đã được công nhận bởi một số câu trả lời. Điều này đã được cô đọng được cung cấp bởi những phản ứng như: "Uỷ ban nên chủ động hơn trong quá trình này" (R30 2012) hay "chúng một cách độc lập nên có hành động nào ở fl ảnh hướng của Chính phủ Việt Nam" (R90 2012). Một số người được hỏi đã không ủng hộ đầy đủ tion adop- của IFRS và chỉ ra những trở ngại đó sẽ xảy ra nếu như một hành động đã được theo đuổi. Phản ứng khác chạm vào một mối quan tâm thường xuyên về IFRS không phải là thích hợp cho các quy định và tiêu chuẩn của một nền kinh tế kế hoạch tập trung như Việt Nam. Những lo ngại này được thể hiện trong các ví dụ rống fol: "VAS là bằng cách nào đó tương tự để cai trị dựa trên trong khi IAS gần dựa trên nguyên tắc" (R27 2012); "Việt Nam không chấp nhận nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và các chính phủ vẫn muốn kiểm soát hoạt động kinh doanh" (R90 2012); "Từ các cấp quản lý nhà nước, một số [tiêu chuẩn] là không phù hợp với môi trường kinh doanh của Việt Nam" (R263
2012).
Những người khác bày tỏ lo ngại rằng IFRS là đắt tiền để nâng plement và do đó thích hợp hơn cho các công ty có kích thước lớn hơn. Một kiểm toán viên nhận xét rằng IFRS "nên được áp dụng đối với một số [doanh nghiệp] chỉ vì nó là tốn kém" (R94 2012). Nó được giải thích thêm một hành fi Nance của một công ty có vốn đầu tư nước ngoài:
"Hiện nay, đa số các công ty có vốn đầu tư nước ngoài áp dụng IFRS trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán của họ. Fore There-, thực hiện IFRS sẽ tác động trực tiếp vào quốc doanh và doanh nghiệp tư nhân. Trong quan điểm của tôi, chuyển đổi sang IFRS đòi hỏi rất nhiều thời gian. Hoàn toàn phiên bản IFRS con- là không thể trừ khi tính minh bạch của báo các tài chính được phổ biến [yêu cầu] "(R741 2012).
Một vấn đề đáng quan tâm được thể hiện bằng những người trả lời có liên quan đến một thực tế là trong việc thực hiện IFRS tại Việt Nam, có là một thiếu sự tham gia vào quá trình thiết lập Sở NN & PTNT chuẩn. Điều này đã khéo léo giải thích bởi sự đơn tương tự từ các nhóm học tập:
"Người Việt Nam setter chuẩn mực kế toán đã không chiếm cực tham gia vào việc phát hành IFRS. Ví dụ, không có ký tự bình luận nổi tiếng với IFRS tiếp xúc dự thảo mà Việt Không cho phép 5% Full áp dụng 31% Thích ứng 61% Không thay đổi 4% tụ 65% setters chuẩn namese gửi đến IASC "(R730 2012). Mối quan tâm này được lặp lại bởi những người khác liên quan đến việc hỗ trợ rất ít cho IFRS từ setters tiêu chuẩn và cơ quan quản lý tương đương. Mối quan tâm này cho thấy trong các cuộc khảo sát từ các nhóm kế toán với báo cáo như "Bộ Tài chính không hỗ trợ" (R388 2012) và một lần nữa từ nhóm kiểm toán viên "Liệu các cơ quan nhà nước và các cơ quan chuyên môn kế toán nhận IFRS hoặc VAS?" (R737 2012). Có một sự hoài nghi lành mạnh từ trên ba nhóm về việc liệu kế toán chuyển đổi sẽ diễn ra. Một số mối quan tâm cho biết là "hệ thống kế toán Việt Nam có thể có những điều khoản không rõ ràng và không minh bạch" (R406 2012); "Quy định hiện hành là quá phức tạp để thay đổi và chính phủ không muốn thay đổi quyền lực của họ" (R718 2012); và "IFRS nhận con nuôi không thực sự đi vào cuộc sống" (R473 2012). Một lời bình luận từ sự lãnh đạo của một công ty niêm yết công khai vô cùng hấp dẫn. Nó nói: Fig. 2. Tối ưu IFRS thông qua cách tiếp cận. "Ủy ban Chuẩn mực Kế toán Việt Nam (VASB), tất nhiên, phần trung tâm của sự điều chỉnh này. Bạn nên thử thách chính mình để cho phép các vấn đề để xảy ra và mệnh mất được thực hiện trong tổ chức của bạn ... .Các vấn đề lớn nhất với IFRS không phải là tiêu chuẩn chính nó, nó là văn hóa và tư tưởng của những người cố gắng để làm tốt nhất có thể, nhưng sợ hãi của 'trách nhiệm' ... Đây là VASB thách thức lớn nhất "(R101 2012).
đang được dịch, vui lòng đợi..
