Tương tự như vậy Claugue et al. (1999) và Zak (2001) thấy rằng năng suất và tăng trưởng kinh tế sẽ cải thiện khi goverments vô tư bảo vệ và xác định quyền sở hữu. Làm cơ sở cho việc tìm kiếm những là preception bởi các công ty mà một evironment kinh doanh không minh bạch tăng sự phổ biến của sự bất đối xứng thông tin, làm tăng chi phí của việc đảm bảo thông tin additonal, làm tăng chi phí giao dịch (ví dụ như phí bảo hiểm rủi ro) và screates một evironment kinh doanh không chắc chắn mà ngăn cản thương mại và đầu tư. Ví dụ Wallsten (2001) tìm thấy một mối quan hệ tỉ lệ nghịch giữa ý định đầu tư và các mối đe dọa tước quyền sở hữu tài sản, như wel như một xu hướng cho các doanh nghiệp để bán lại với giá cao hơn để giúp trả lại kinh phí vốn ban đầu của họ rapudly hơn khi họ cảm thấy kém an toàn hơn về ý đồ các máy chủ của chính phủ, các mức giá cao hơn thường ức chế sự xâm nhập và phát triển giai đoạn của chu kỳ sống của sản phẩm.
KIẾN THỨC VÀ THÔNG TIN TRÊN toàn cầu hóa nền kinh tế
chuyên gia quản lý Stephen Kobrin (1994) mô tả toàn cầu hóa như thúc đẩy không bằng thương mại và đầu tư nước ngoài, nhưng do dòng chảy thông tin. Đó là quan điểm thứ hai này, mà thấy toàn cầu hóa là một quá trình gắn bó chặt chẽ với việc tạo ra, phân phối và sử dụng các kiến thức và thông tin, đó là tập trung ở đây. Nhiều người đóng góp cho cuộc tranh luận về vấn đề toàn cầu hóa hội tụ tecgnological của công nghệ thông tin, máy tính và viễn thông trong những năm cuối thế kỷ XX là đã hành động như một chất xúc tác quan trọng trong các grownthof nhanh các hoạt động dựa trên thông tin, nhìn thấy ở đây như là dấu hiệu của nền kinh tế toàn cầu (Held et al. 1999).
đang được dịch, vui lòng đợi..