Dựa trên lý thuyết đường cong Armey, các nghiên cứu gần đây đã tìm thấy hiệu ứng ngưỡng của chi tiêu chính phủ đối với tăng trưởng kinh tế. Vedder và Gallaway (1998) chỉ ra các đỉnh Armey đường cong nơi tối ưu tổng chi tiêu của chính phủ như là một phần của GDP là 17,45% đối với Mỹ, 21,37% đối với Canada, 20,97% cho nước Anh, 22,23% cho Italy, 19,43% cho Thụy Điển và 26,14% Đan Mạch. Chen và Lee (2005) tin rằng có tồn tại một hiệu ứng ngưỡng và một mối quan hệ phi tuyến tính của đường cong Armey tồn tại ở Đài Loan. Họ cung cấp bằng chứng cho thấy các mức ngưỡng là 22,83% GDP cho tổng chi tiêu chính phủ, 7,30% GDP cho chi phí đầu tư của chính phủ, và 14,96% GDP cho tiêu dùng của chính phủ. Zhu et al. (2010) đã sử dụng một mô hình tự hồi quy chuyển tiếp trơn tru để ước lượng ảnh hưởng của kích thước của chính phủ đối với tăng trưởng kinh tế đối với Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia, Singapore và Thái Lan trong giai đoạn 1961-2004. Kết quả thực nghiệm cho thấy các ngưỡng ước tính chi tiêu chính phủ là 11% GDP cho hầu hết các nước. Odawara (2010) đã nghiên cứu mối quan hệ tuyến tính giữa các kích thước chính phủ và kinh tế vĩ mô. Các kết quả chính cho rằng mức ngưỡng của tiêu dùng của chính phủ là 19,6% GDP của Mỹ, 26,8% GDP cho Vương quốc Anh, 14,7% GDP cho Nhật Bản, 24,2% Canada, và 19% GDP cho nước Úc. Việc áp dụng các phương pháp của ARDL dự toán, Altunc và Aydın (2013) tìm thấy một tỷ lệ phần trăm chi tiêu chính phủ tối ưu là 25, 20 và 22 của Thổ Nhĩ Kỳ, Romania và Bulgaria, tương ứng. Sử dụng các chỉ số kích thước chính phủ khác nhau để đánh giá những tác ngưỡng kích thước của chính phủ đối với tăng trưởng kinh tế cho 15 quốc gia châu Âu, Hajamini và Falahi (2012) đã xác định rằng mức ngưỡng là 41,7% GDP cho tổng chi tiêu, 15,8% GDP cho chi tiêu dùng cuối cùng và 19,4% GDP cho chi thường xuyên.
đang được dịch, vui lòng đợi..
