ôn nhân đồng giới is hôn nhân between người have the same giới tính sinh học. Hôn nhân đồng giới when còn called là "hôn nhân bình đẳng" hay "bình đẳng hôn nhân", thuật ngữ this sử dụng phổ biết nhất from users ủng hộ [1] [2] [3] [4] [ 5]. Việc hợp pháp hoá hôn nhân đồng giới còn described bằng thuật ngữ "định nghĩa lại hôn nhân" from trường phái has quan điểm đối lập. [6] [7] [8] Hôn nhân đồng giới is vấn đề còn tồn tại tranh cãi between the following người ủng hộ without ủng hộ. Những người ủng hộ hôn nhân đồng giới cho that việc hợp pháp hoá hôn nhân đồng giới is to ensure nhân quyền (quyền con người), đảm bảo sự bình đẳng and quyền lợi Centered users thuộc its thiên hướng tình dục khác nhau trong xã hội; its cặp đôi đồng tính thiết lập mối quan hệ bền vững tương đương the cặp đôi khác giới trên all góc độ tâm lý; sự phân công vai trò between thành viên out of those gia đình đồng tính công bằng than; thể chất tâm lý and the con người been increase cường tốt bởi hôn nhân hợp pháp đồng thời xã hội would be hưởng nhiều lợi ích từ việc công nhận hôn nhân đồng giới, loại bỏ be kỳ thị phân biệt đối and xử. Mặt khác, sự đồng thuận cao of the hiệp hội nghiên cứu khoa học hàng đầu về tâm lý, xã hội, chủng nhân, nhi khoa học that trẻ em be nuôi dưỡng and phát triển tốt bởi the cặp cha mẹ đồng tính, phát sự triển tâm sinh lý, giới tính and hạnh phúc of trẻ em không depends on xu hướng tình dục of cha mẹ; con cái of the cặp vợ chồng đồng tính been hưởng lợi when nuôi dưỡng bởi cha mẹ has tình trạng hôn nhân hợp pháp and receive sự hỗ trợ of the tổ chức, đoàn thể xã hội. Theo the hiệp hội this, hôn nhân đồng tính do not give bất kỳ nguy cơ nào mà chỉ better cho xã hội, làm which the Chính phủ cần ban hành đầy đủ its quyền dân sự bình đẳng cho người đồng tính in Luật pháp. [9] [10] [11] [12] Thế kỷ 21 been xem là thế kỷ of bình đẳng hôn nhân, after existing quyền bình đẳng of người da màu, quyền bình đẳng of phụ nữ and quyền bình đẳng tôn giáo . [12] [13] [14] [15] [16] [17] [18] [19] [20] [21] [22] [23] [24] [25] backwards, users khác phản đối hôn nhân đồng giới vì they for that kiểu gia đình has the following Khiêm khuyết (trẻ em thiếu cha or mẹ be dễ gặp tổn thương tâm lý and lệch lạc hành vi, hôn nhân đồng tính thường do not bền vững, do not be able duy tri noi giống, làm sụt giảm giá trị of hôn nhân in văn hóa xã hội, thúc đẩy tình trạng làm cha / mẹ đơn thân ...), làm vậy if chấp thuận and for it nhân rộng will cause hại cho xã hội and trẻ em. Theo users phản đối, which is not an vấn đề về quyền công dân, vấn đề chính is out of those tác động tiêu cực of it with the xã hội and trẻ em, vì vậy Chính phủ should not công nhận dạng hôn nhân này [ 26] [27] Công nhận hôn nhân đồng giới be a problem chính trị, xã hội, nhân quyền and quyền công dân, as well as vấn đề tôn giáo out nhiều quốc gia trên thế giới and. Những tranh cãi tiếp tục diễn ra that hai người đồng giới has should be kết hôn, be công received a mối quan hệ khác (kết hợp dân sự) or from chối công nhận those quyền which. [28] [29] [30] Hôn nhân đồng giới Move to for the người LGBT, also users đóng thuế cho chính phủ, be use dịch vụ công and hiện thực nhu cầu tài chính such as the following cặp khác giới khác. Hôn nhân đồng giới are also Move to cho them sự bảo vệ hợp pháp ví dụ as quyền thừa kế and quyền thăm nuôi. [31] Những lợi ích or tác hại of việc công nhận hôn nhân đồng tính là chủ đề tranh luận of many tổ chức khoa học. Hôn nhân đồng giới be implemented one cách đơn giản or theo nghi thức tôn giáo. Nhiều cộng đồng tín ngưỡng trên thế giới given phép hai người cùng giới kết hôn or thực hiện hôn lễ cùng giới, ví dụ as: Phật giáo out Đài Loan, Úc, Nhà thờ out Thụy Điển, Giáo hội Trưởng lão, Do Thái giáo bảo thủ, Giáo hội Thống Nhất Canada ... [32] [33] [34] [35] Trước while công nhận hôn nhân đồng giới, nhiều nước existing luật for cặp đồng tính đăng ký sống chung gọi is kết hợp sự dân, quy định quyền lợi and bổn phận their such as Đan mạch từ năm 1989 [36], [37], Na Uy năm 1993 [38].
đang được dịch, vui lòng đợi..
