2.1.4. các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ2.1.4.1. hạ tầngDNVVN cần phải xác định các yếu tố thành công quan trọng như tài chính, chuyển giao công nghệ, thuế, xúc tiến thị trường, cơ hội xuất khẩu, và chiến lược nghiên cứu và phát triển đó xác định các điều kiện cho họ để vượt qua những khó khăn trong cả hai nội bộ của họ và bên ngoài môi trường (Petri, 1995; Assaf, 1998). Wattanapruttipaisan (2002) đề xuất rằng khả năng cạnh tranh có thể được thừa hưởng bởi các yếu tố khác hơn so với vị trí và tài nguyên thiên nhiên như vậy như: đang truy cập vào thông tin toàn cầu và kiến thức (tiêu chuẩn thị trường, tiếp thị cơ hội và công nghệ); sự tham gia trong các cụm của các công ty, mạng với nhà cung cấp, nhà sản xuất hoặc nhà phân phối sản phẩm bổ sung và người tiêu dùng; và ngày đi học và cải thiện hiệu quả và linh hoạt. Mối quan hệ mạng này tạo ra một mới lưu lượng thông tin và kiến thức cơ sở cho doanh nghiệp nhỏ có thể là các mô hình cho hiệu quả phân phối tài nguyên để DNVVN bởi nhiều chính sách gói từ các tiểu bang và các thị trường.472.2 nhân vật. Nhà nước và yếu tố thị trường tác động đến ngày DNNVV tại Việt Nam(Nguồn: CIEM, DoE, & ILSSA (2010), đặc điểm của các doanh nghiệp Việt Nam môi trường-bằng chứng từ một cuộc khảo sát DNN & v trong năm 2009)2.1.4.2. hạ cánh hoặc cơ sởMặc dù nhiều thay đổi tích cực trong luật đất đai, quyền sở hữu đất và sử dụng đất mục đích kinh doanh vẫn còn dưới sự kiểm soát quan liêu mà đã làm cho hệ thống phức tạp. Bản ghi nghèo đất, dữ liệu cơ sở tại văn phòng đăng ký đất và cuộc xung đột giữa lợi ích của chủ đất vì gần một thế kỷ của cuộc chiến tranh đã làm cho nó hoàn toàn không thể kết nối cho các lớp học kinh doanh mới tại Việt Nam. Có vẻ như rằng DNN & v không nhận được bất kỳ viện trợ chính sách đất đáng chú ý và phải "bơi một mình trong đại dương". Mặc dù thực tế là hỗ trợ chính sách đặt ra, DNVVN thì không biết nơi để yêu cầu để được hỗ trợ. Các yếu tố hindering khác bao gồm: một thiếu thông tin về đất liền vấn đề chẳng hạn như tài nguyên và khu công nghiệp, lệ phí cho thuê cao và quan liêu thủ tục liên quan đến cho thuê ứng dụng quy trình. Những yếu tố này và khác trict s yêu cầu trong khu công nghiệp chẳng hạn như phân biệt đối xử chống lại DNN & v trong truy cập vào đất nguồn lực và một thủ tục dài, quan liêu ứng dụng cho thuê đất có kết quả trong DNN & v despondency về cách nhập công nghiệp chế biến công viên. Trong khi đất rộng rãi được thực hiện sẵn sàng cho nhà, DNVVN được giới hạn trong đất hạn chế riêng của họ hoặc họ phải thuê nó từ Nhà hoặc ở nơi khác. 482.1.4.3. chính phủ hỗ trợa. nhà nước chính sách phát triển DNNVV Chính sách hỗ trợ DNN & v thay đổi quốc gia và từ phát triển Quốc gia kém phát triển quốc gia vì những khác biệt trong bối cảnh kinh doanh, văn hóa và mức độ công nghiệp hóa. CEE kinh nghiệm cho thấy rằng các điều kiện đã nêu ở trên là quan trọng nhất phát triển kinh doanh. Theo Batra và Mahmood (2003), DNNVV trong việc phát triển Các quốc gia đông á nhận được hỗ trợ từ chính quyền địa phương trong các hình thức vi tài chính, các can thiệp tăng khu vực tư nhân đào tạo, phát triển công nghệ, và thông tin thị trường. Trung Quốc, Malaysia, Indonesia và Thái Lan hưởng lợi từ chính sách cải cách, mối quan hệ mạng, cụm liên kết thị trường, và sự hỗ trợ mới cơ sở hạ tầng (Brimble, Oldfield và Monsakul, 2002; Harvie, năm 2001; Tambunan, 2005; và Harvie, 2002). Tại Việt Nam, chính sách hỗ trợ là một yếu tố quan trọng cho DNN & v tăng trưởng.sinh thuế và chính sách tài chính Sự thiếu hụt của các thông tin về chính sách ưu đãi thuế, bao gồm cả những khó khăn và Các chi phí ẩn trong các thủ tục ứng dụng cho ưu đãi thuế và ưu đãi thuế không rõ ràng chính sách nản chí DNVVN từ việc áp dụng cho họ. Sĩ quan thuế dường như có mạnh mẽ sức mạnh để thực thi các mức thuế, và điều này là tạo ra ứng dụng ưu đãi thuế và thuế khó khăn trong lĩnh vực DNNVV. Sự chậm trễ và quan liêu đánh giá ứng dụng ưu đãi thuế đôi khi đã dẫn tới các ứng xử không công bằng trong việc cung cấp ưu đãi thuế và có thêm ẩn chi phí cho doanh nghiệp nhỏ. Ẩn chi phí và sự chậm trễ trong ứng dụng chế biến cho ưu đãi thuế và sắp xếp miễn thuế gây khó khăn cho cả hai đối tượng nộp thuế và thu thuế. Một tỷ lệ không nhất quán áp đặt thuế VAT cũng gián tiếp khuyến khích tham nhũng và thuế trốn. Vấn đề với tài chính và chính sách tín dụng bao gồm: phân biệt đối xử chống lại DNN & v; tham nhũng; thủ tục ứng dụng nghiêm ngặt; chính sách không hợp lý tín dụng; không đầy đủ đất luật liên quan đến đất sử dụng quyền; sự thiếu hụt của chính phủ giám sát; vai trò của mơ hồ hỗ trợ các cơ quan trong việc giúp đỡ DNVVN để vượt qua khó khăn tài chính; một thiếu thông tin về chính sách tín dụng; và việc thiếu quỹ bảo hiểm tín dụng s để hoạt động như bảo lãnh trong lĩnh vực DNNVV để truy cập vào tín dụng. Ngoài ra, trong khi nhà có thể có điều kiện dài hơn và thấp hơn mức lãi suất cho tín dụng mà không cần thế chấp, nhờ của quản lý quản cơ quan bảo lãnh, DNVVN là không thể truy cập vào những lợi ích này.49c. thương mại và chính sách xúc tiến xuất khẩu cho việc thúc đẩy phát triển DNN & vTrước năm 2001, các cải cách theo định hướng thị trường và hỗ trợ tài chính để ngoài nhà nước Các doanh nghiệp trực tiếp đã bồi dưỡng sự phát triển DNN & v. Chỉ kể từ năm đó, Việt Nam DNNVV đã nhận được chính sách cụ thể và các chương trình của chính phủ và quốc tế Các nhà tài trợ.Trong bối cảnh toàn cầu hóa, đạt được lợi thế cạnh tranh là yếu tố quan trọng sự sống còn DNNVV và phát triển thị trường cả trong nước và quốc tế. Thương mại vàxúc tiến xuất khẩu có thể là tập trung và sẽ là điểm quan trọng để tạo thuận lợi cho sự phát triển của các khu vực tư nhân. Nhằm cải thiện khả năng cạnh tranh của DNN & v, chính phủ đã cố gắng để cung cấp cho các DNVVN và các lĩnh vực kinh doanh khác với sự gia tăng hỗ trợ thông qua hỗ trợ Các tổ chức cung cấp thị trường thông tin và tín dụng ưu đãi. Ngoài ra, chính phủ đang cố gắng để giảm thiểu sự can thiệp trực tiếp của nó trong hoạt động kinh doanh DNN. Có rất nhiều Các hoạt động khuyến mại, bao gồm cả thương mại và thị trường thông tin, xuất khẩu hoạt động, tư vấn đào tạo kỹ năng cải thiện kinh doanh quốc tế, xúc tiến thương hiệu, thương mại triển lãm và cơ sở hạ tầng hỗ trợ kinh doanh. Tuy nhiên, có bằng chứng bị đáng chú ý mà chính sách ưu đãi thuế quan không phải là rõ ràng và có vẻ như không nhằm vào DNN & v. DNVVN vẫn phải đối mặt với nhiều trở ngại liên quan đến thuế quan rào cản. Ví dụ, tỷ lệ thuế trên thiết bị sử dụng là bình thường dựa trên cán bộ tùy chỉnh whims, cho rằng các tiêu chí thuế quan cho chất lượng đánh giá là không rõ ràng. Đó là bằng chứng, quá, mà xuất khẩu quỹ khuyến mại và ưu đãi không có sẵn cho DNN & v. Chính sách trợ cấp được trao cho nhà lớn doanh nghiệp xuất khẩu. Hơn nữa, nhập khẩu và xuất khẩu hạn ngạch không dễ dàng thu được. Điều này là do các chế độ quan liêu hành chính và những khó khăn trong hệ thống cấp phép xuất nhập khẩu mà có cấm cho các DNVVN kinh doanh trực tiếp. Kết quả là họ bị giới hạn hoạt động như là nhà thầu phụ cho lớn hơn các công ty và nhà.2.1.4.4. lao độngNó là quan trọng để xác định đào tạo và phát triển kỹ năng quản lý phát triển cũng như người lao động. Hỗ trợ trong việc đào tạo là chính phủ hỗ trợ gián tiếp nâng cao kỹ năng quản lý DNN và để trang cho DNN & v với kỹ năng chuyên nghiệp. Như một kết quả, DNVVN sẽ có nhiều cơ hội hơn để cải thiện chất lượng sản phẩm, giảm chi phí của sản xuất, và tăng năng lực cạnh tranh. Thông qua chương trình đào tạo, DNN & v kỹ năng quản lý và các kỹ năng chuyên nghiệp cho DNNVV lao động có thể được cải thiện. Chính phủ Việt Nam đã cung cấp cho nhiều chương trình đào tạo, một phần trợ cấp hoặc miễn phí. Kết quả chỉ ra rằng một số cán bộ chính phủ inadaptability sang một nền kinh tế thị trường theo định hướng đã tạo ra ít phiền toái và những khó khăn nhất 50DNN & v. Theo phỏng vấn, không đủ kỹ năng và kiến thức về điều hành sĩ quan đã thực sự khuyến khích họ làm việc với DNVVN có hiệu quả và tích cực. Đáng ngạc nhiên, tất cả người trả lời tuyên bố rằng vai trò của các hỗ trợ các cơ quan là vẫn không mạnh mẽ trong việc cung cấp một chất lượng cao của tư vấn và chương trình đào tạo trong lĩnh vực DNNVV. Đào tạo chương trình không thực tế tập trung và quá chung chung.2.1.4.5. môi trường xã hội và văn hóaGibb và Lyapunov (1996) đề nghị rằng một nền văn hóa kinh doanh cần phải nuôi dưỡng để hỗ trợ DNN & v trong các lĩnh vực chẳng hạn như giá trị, niềm tin, Thái độ và hành vi tiêu chuẩn. Gibb cũng lập luận rằng một mạng lưới cá nhân dựa trên giá trị xã hội cấu thành quan trọng biến ảnh hưởng đến giao dịch giữa công ty và khách hàng, tiếp thị kênh, nhà cung cấp, nhân viên, gia đình, chính quyền pháp lý, ngân hàng, kế toán, và đối thủ cạnh tranh. Hà và Swierczek (2003) tìm thấy rằng hiệu suất của các DNNVV tại Việt Nam đã tích cực liên quan đến văn hóa kinh doanh. Điều này có nghĩa rằng các chủ sở hữu của DNN & v là không sẵn sàng quyết định rủi ro kinh doanh và sự hiện diện của một thái độ tránh rủi ro là nổi bật giữa các doanh nhân.
đang được dịch, vui lòng đợi..
