: Giai đoạn 2006- 2008 là giai đoạn mà Việt Nam và nhiều nước khác trê dịch - : Giai đoạn 2006- 2008 là giai đoạn mà Việt Nam và nhiều nước khác trê Việt làm thế nào để nói

: Giai đoạn 2006- 2008 là giai đoạn

: Giai đoạn 2006- 2008 là giai đoạn mà Việt Nam và nhiều nước khác trên thế giới phải đối mặt với tình hình lạm phát gia tăng. Giá các nhóm hàng hoá tiêu dùng tăng cao trong đó giá của nhóm lương thực- thực phẩm là tăng cao nhất. Năm 2007, thiên tai lớn, dịch bệnh diễn biến phức tạp, tai nạn do sự cố sập cầu dẫn cầu Cần Thơ và sự biến động bất lợi của thị trường, giá cả thế giới kéo dài gây hậu quả nghiêm trọng là những yếu tố không thuận lợi cho sự phát triển kinh tế Việt Nam. Giá cả nhiên liệu, vật tư nhất là xăng dầu, phôi thép, thép, nguyên liệu sợi, vải, vật liệu phục vụ công nghiệp dệt may, da giày, hóa chất, phân bón, thức ăn chăn nuôi tăng cao. Thị trường xuất khẩu một số mặt hàng biến động phức tạp như dệt may, da giày, thủy sản, thủ công mỹ nghệ, xe đạp và phụ tùng, động cơ điện.. Điều đó đã làm giá cả tiêu dùng trong nước tăng cao không có điểm dừng. Theo tổng cục thống kê, giá tiêu dùng năm 2007 tăng hơn 13%-, kỷ lục trong vòng một thập kỷ qua.
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO và thực hiện cam kết PNTR với Hoa Kỳ, do đó, thị trường xuất khẩu mở rộng, các rào cản thương mại Việt Nam với các nước thành viên WTO được dỡ bỏ hoặc hạn chế. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao qua Hội nghị cấp cao APEC năm 2006. Quan hệ ngoại giao, các hoạt động hợp tác kinh tế, đầu tư, mở rộng thị trường xuất khẩu được củng cố và tăng cường thông qua các cuộc thăm cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước cùng với sự tham gia của các nhà doanh nghiệp. Tình hình chính trị ổn định, an ninh - quốc phòng bảo đảm, đã tạo môi trường thuận lợi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các doanh nghiệp trong nước. Thị trường và giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam diễn biến theo hướng cầu lớn hơn cung như dầu thô, gạo, cà phê, chè, thủy sản... Do đó, giá cả các mặt hàng này tăng cao, có lợi cho hoạt động xuất khẩu.
Trong năm 2007, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu quan trọng trong lĩnh vực kinh tế. Tốc độ tăng trưởng đạt 8,48%, cao nhất trong mười năm qua. Tổng sản phẩm quốc nội GDP tính theo giá hiện hành đạt 1.144 nghìn tỷ đồng tương đương 71,4 tỷ USD. Thu nhập bình quân đầu người ở mức 835 USD, cao hơn dự kiến, và sẽ vươn tới 960 USD trong năm 2008. Lần đầu tiên dòng vốn đầu tư nước ngoài(FDI) đổ vào Việt Nam đạt 20,3 tỷ USD, với những gương mặt tên tuổi như Foxconn, Piaggio, Keangnam. Việt Nam nhận được cam kết tài trợ 5,4 tỷ USD từ nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA).
Thị trường chứng khoán cũng có nhiều biến động trong năm này, chỉ số Vn- Index có lúc đạt tới đỉnh 170,67 rồi sụt giảm liên tục trong những tháng sau đó. Chỉ số VN- Index chỉ lanh quanh trong khoảng từ 900 đến 1000 điểm thậm chí có lúc tụt xuống đáy là 883,9 điểm vào ngày 6/8. Chỉ thị 03 của Ngân hàng nhà nước về khống chế dư nợ cho vay đầu tư chứng khoán ở mức 3%, buộc nhiều ngân hàng dừng cho vay và rốt ráo xiết nợ, không ít nhà đầu tư hụt vốn. Thêm vào đó, năm 2007 là năm mà nhiều doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực xương sống của nền kinh tế chào bán cổ phần lần đầu IPO khiến cho thị thường chứng khoán vốn non trẻ của nước ta thêm lận đận. Mặc dù vây, đây vẫn là kênh huy động vốn hiệu quả của nền kinh tế, quy mô vốn hóa của thị trường tập trung đã chiếm hơn 40% GDP.
Nhờ tác động của chủ trương thoáng hơn với việc sở hữu nhà của Việt Kiều và người nước ngoài, thị trường bất động sản sôi động trở lại sau nhiều năm trầm lắng. Giá nhà đất trải qua 3 đợt tăng cao, vào tháng 3, 8 và 10. Cơn sốt lên đến đỉnh điểm khi hàng nghìn khách hàng chen lấn đi đặt tiền “giữ chỗ” tại những dự án chung cư cao cấp hồi tháng 10. Trong số đó không ít là giới đầu cơ chuyên nghiệp, những người lập tức chuyển nhượng xuất mua cho khách hàng cấp 2-3 với giá gấp 1,5-2 lần mức công bố của chủ đầu tư. Làn sóng đầu tư vào Việt Nam tăng cao cũng kéo theo nhu cầu thuê, mua nhà ở phát triển vượt bậc.
Năm 2008 tiếp tục là năm khó khăn đối với Việt Nam. Giá dầu thô và giá nhiều loại nguyên liệu, hàng hóa khác trên thị trường thế giới tăng mạnh trong những tháng giữa năm kéo theo sự tăng giá ở mức cao của hầu hết các mặt hàng trong nước; lạm phát xảy ra tại nhiều nước trên thế giới; khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm cho một số nền kinh tế lớn suy thoái, kinh tế thế giới suy giảm; thiên tai; dịch bệnh đối với cây trồng vật nuôi xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư.Trong bối cảnh đó, chính phủ Việt Nam tiếp tục theo đuổi mục tiêu tăng trưởng cao nhằm sớm hoàn thành mục tiêu 5 năm; các biện pháp và công trình được triển khai dồn dập mà không có sự quản lý chặt chẽ. Kết quả là cung tín dụng tăng trên 50%, nhập siêu vượt mức an toàn, thị trường chứng khoán sụt giảm kỷ lục, bong bóng thị trường bất động sản bị vỡ. Nền kinh tế rơi vào cả hai trạng thái phức tạp lạm phát và giảm phát. Năm 2008 lạm phát của Việt Nam đã vượt lên mức hai con số, đỉnh điểm đạt tới 23%.
Hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục tăng trưởng nhưng có dấu hiệu chậm lại ở những tháng cuối năm; trong đó nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất giảm nhiều nhất chứng tỏ có sự chững lại trong đầu tư và sản xuất. Bước sang quý 1/2009, lần đầu tiên sau nhiều năm, cán cân thương mại của Việt Nam ở trạng thái xuất siêu.
Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, môi trường kinh doanh có sức hấp dẫn với nhiều nhà đầu tư nước ngoài (đầu tư nước ngoài năm 2007 đạt trên 20 tỷ USD), tốc độ tăng trưởng kinh tế cao ( năm 2007 tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là 8.5% đứng thứ hai thế giới chỉ sau Trung Quốc), thị trường chứng khoán và bất động sản hình thành và bắt đầu phát triển, cơ chế thị trường định hướng XHCN được định hình, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao rõ rệt (thành viên WTO, lần đầu tiên được bầu là thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc…). Bắt đầu từ cuối năm 2007, nền kinh tế Việt Nam xuất hiện nhiều yếu tố thể hiện sự bất ổn của tăng trưởng kinh tế quá nóng. Lạm phát tăng cao, trong 6 tháng đầu năm 2008 lạm phát đã lên tới 18,44% so với tháng 12/2007. Chỉ số lạm phát tăng cao đã gây nên những hệ lụy rất lớn trong đời sống xã hội, nhất là đến nông dân và những người có thu nhập thấp, đe dọa tính ổn định vĩ mô, tác động đến môi trường kinh doanh, đầu tư và tăng trưởng, những thành tựu của công cuộc xóa đói giảm nghèo, gây tâm lý bất an cho các nhà đầu tư và người dân. Nguyên nhân dẫn đến sự tăng nhanh của chỉ số lạm phát là do quá trình tăng trưởng kinh tế của nước ta thiếu bền vững, tăng trưởng GDP cao nhưng chủ yếu tăng trưởng theo chiều rộng, hiệu quả đầu tư thấp (chỉ số ICOR cao). Đầu tư công của nhà nước không đồng bộ, hiệu quả chưa cao thể qua nhiều công trình được nhà nước đầu tư hàng chục tỷ đồng nhưng xây dựng kém chất lượng gây lãng phí thời gian và tiền của. Kết quả của đầu tư ồ ạt, chạy theo số lượng là hàng loạt các công trình trị giá hàng tỷ đô la Mỹ ở các địa phương, các tập đoàn kinh tế liên quan đến năng lượng, kết cấu hạ tầng nguồn nhân lực ở tầm kinh tế quốc dân, rất quan trọng cho quốc kế sinh nhai đã được triển khai nhanh chóng, thiếu đi sự thẩm định cần thiết của các chuyên gia. Tình trạng này làm cho sự cân bằng các nguồn lực trong nền kinh tế bị phá vỡ. Thêm vào đó là sự quản lý kinh tế lỏng lẻo, tập trung đầu tư cho các tập đoàn kinh tế nhà nước vốn không được xây dựng trên nền tảng chắc chắn mà chỉ thí điểm với nhiều ưu tiên trong quá trình hoạt động, để cho các tập đoàn này tự do phát triển sang nhiều lĩnh vực khác như đầu tư vào chứng khoán, thị trường bất động sản, ngân hàng thậm chí là thành lập các ngân hàng thương mại, đã làm cung tín dụng trong nước tăng rất cao, lạm phát tăng vọt lên 25%, nhập siêu vượt quá mức an toàn, chứng khoán sụt giảm ở mức kỷ lục, bong bóng thị trường bất động sản bị vỡ. Trước tình hình đó, từ tháng 3/2008 Chính phủ đã đưa 8 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội. Lãi suất cơ bản được nâng lên, đồng thời tăng tỉ lệ DTBB, phân bổ tín phiếu bắt buộc, cắt giảm đầu tư, chi tiêu chính phủ... Các biện pháp kiểm soát lạm phát gây ra gánh nặng cho các ngân hàng thương mại và những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặc dù lạm soát nhanh chóng được kìm lại nhưng thực chất trong nền kinh tế vẫn còn tồn đọng nhiều điểm yếu kém đặc biệt là trong khâu quản lý. Các ngân hàng gặp khó khăn trong huy động vốn, các doanh nghiệp nhỏ không thể xoay xở được vốn cho sản xuất. Chính phủ đã phải điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2008 từ 8,5-9% xuống còn 7%. Nền kinh tế chưa kịp định hình sau lạm phát thì những chấn động từ “cơn bão tài chính” toàn cầu tiếp tục làm tổn thương nền kinh tế nước
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Việt) 1: [Sao chép]
Sao chép!
: Giai đoạn 2006-2008 là giai đoạn mà Việt Nam và nhiều nước ông trên thế giới phải đối mặt với tình chuyển lạm phát gia tăng. Giá các nhóm hàng hóa tiêu dùng tăng cao trong đó giá của nhóm lương thực-thực phẩm là tăng cao nhất. Năm 2007, thiên tai lớn, dịch bệnh lại biến phức tạp, tai nạn làm sự cố sập cầu dẫn cầu Cần Thơ và sự biến động bất lợi của thị trường, giá đoàn thế giới kéo 戴思杰 gây tỉnh hậu tên nghiêm trọng là những yếu tố không thuận lợi cho sự phát triển kinh tế Việt Nam. Giá đoàn nhiên suất, vật tư nhất là xăng dầu, phôi thép, thép, nguyên suất sợi, vải, công suất tên vụ công nghiệp dệt may, da giày, hóa chất, phân bón, ngữ ăn chăn nuôi tăng cao. Thị trường cạnh khẩu một số mặt hàng biến động phức tạp như dệt may, da giày, thủy ở, thủ công mỹ nghệ, xe đạp và phụ tùng, động cơ điện... Điều đó đã làm giá đoàn tiêu dùng trong nước tăng cao không có điểm dừng. Theo tổng cục thống kê, giá tiêu dùng năm 2007 tăng hơn 13%-, kỷ lục trong vòng một thập kỷ qua. Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính ngữ của WTO và thực hiện cam kết PNTR với Hoa Kỳ, do đó, thị trường cạnh khẩu mở rộng, các rào cản thương mại Việt Nam với các nước thành viên WTO được dỡ bỏ hoặc hạn chế. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao qua Hội nghị cấp cao APEC năm 2006. Quận hay ngoại giao, các hoạt động hợp NXB kinh tế, đầu tư, mở rộng thị trường cạnh khẩu được củng cố và tăng cường thông qua các cuộc thăm cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước cùng với sự tham gia của các nhà doanh nghiệp. Tình chuyển chính trị ổn định, một ninh – quốc phòng bảo đảm, đã chức môi trường thuận lợi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các doanh nghiệp trong nước. Thị trường và giá đoàn nhiều mặt hàng cạnh khẩu của Việt Nam lại biến theo hướng cầu lớn hơn cung như dầu thô, gạo, cà phê, chè, thủy ở... Do đó, giá đoàn các mặt hàng này tăng cao, có lợi cho hoạt động cạnh khẩu.Trong năm 2007, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu quan trọng trong lĩnh vực kinh tế. Thứ độ tăng trưởng đạt 8,48%, cao nhất trong mười năm qua. Tổng ở phẩm quốc nội GDP tính theo giá hiện hành đạt 1.144 nghìn tỷ đồng tương đương 71,4 tỷ USD. Thu nhập bình quân đầu người ở mức 835 USD, cao hơn dự kiến, và sẽ vươn tới 960 USD trong năm 2008. Lần đầu tiên dòng vốn đầu tư nước ngoài(FDI) đổ vào Việt Nam đạt 20,3 tỷ USD, với những gương mặt tên tuổi như Foxconn, Piaggio, Keangnam. Việt Nam nhận được cam kết tài trợ 5,4 tỷ USD từ nguồn vốn viện trợ phát triển chính ngữ (ODA).Thị trường chứng khoán cũng có nhiều biến động trong năm này, chỉ số Vn - Index có lúc đạt tới đỉnh 170,67 rồi sụt giảm liên tục trong những tháng sau đó. Chỉ số VN - Index chỉ lãnh quanh trong khoảng từ 900 đến 1000 điểm thậm chí có lúc tụt xuống đáy là 883,9 điểm vào ngày 6/8. Chỉ thị 03 của Ngân hàng nhà nước về khống chế dư nợ cho vay đầu tư chứng khoán ở mức 3%, buộc nhiều ngân hàng dừng cho vay và rốt ráo xiết nợ, không ít nhà đầu tư hụt vốn. Thêm vào đó, năm 2007 là năm mà nhiều doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực xương sống của nền kinh tế chào bán cổ phần lần đầu IPO khiến cho thị thường chứng khoán vốn không con của nước ta thêm lận đận. Mặc dù vây, đây vẫn là kênh huy động vốn hiệu tên của nền kinh tế, quy mô vốn hóa của thị trường tổ trung đã chiếm hơn 40% GDP.Nhờ NXB động của hào trương thoáng hơn với việc sở hữu nhà của Việt Kiều và người nước ngoài, thị trường bất động ở sôi động trở lại sau nhiều năm trầm lắng. Giá nhà đất trải qua 3 đợt tăng cao, vào tháng 3, 8 và 10. Cơn sốt lên đến đỉnh điểm khi hàng nghìn khách hàng chen lấn đi đặt tiền "giữ chỗ" tại những dự án chung cư cao cấp hồi tháng 10. Trong số đó không ít là giới đầu cơ chuyên nghiệp, những người lập tức chuyển nhượng cạnh mua cho khách hàng cấp 2-3 với giá gấp 1,5-2 lần mức công cách của hào đầu tư. Làn sóng đầu tư vào Việt Nam tăng cao cũng kéo theo nhu cầu thuê, mua nhà ở phát triển vượt bậc.Năm 2008 truyện tục là năm khó khăn đối với Việt Nam. Giá dầu thô và giá nhiều loại nguyên suất, hàng hóa ông trên thị trường thế giới tăng mạnh trong những tháng giữa năm kéo theo sự tăng giá ở mức cao của hầu hết các mặt hàng trong nước; lạm phát xảy ra tại nhiều nước trên thế giới; khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm cho một số nền kinh tế lớn suy thoái, kinh tế thế giới suy giảm; Thiên tai; Dịch bệnh đối với cây trồng vật nuôi xảy ra liên truyện trên địa bàn đoàn nước gây ảnh hưởng lớn đến ở cạnh và đời sống dân cư. Trong bối cảnh đó, chính phủ Việt Nam truyện tục theo đuổi mục tiêu tăng trưởng cao nhằm sớm hoàn thành mục tiêu 5 năm; Các biện pháp và công trình được triển khai dồn dập mà không có sự quản lý chặt chẽ. Kết tên là cung tín Scholars VietJet trên 50%, nhập siêu vượt mức an toàn, thị trường chứng khoán sụt giảm kỷ lục, bong bóng thị trường bất động ở bị vỡ. Nền kinh tế rơi vào đoàn hai trạng thái phức tạp lạm phát và giảm phát. Năm 2008 lạm phát của Việt Nam đã vượt lên mức hai con số, đỉnh điểm đạt tới 23%. Hoạt động cạnh nhập khẩu truyện tục tăng trưởng nhưng có dấu hiệu chậm lại ở những tháng cuối năm; trong đó nhập khẩu nguyên suất cho ở cạnh giảm nhiều nhất chứng tỏ có sự chững lại trong đầu tư và ở cạnh. Bước sang quý 1/2009, lần đầu tiên sau nhiều năm, quý cần thương mại của Việt Nam ở trạng thái cạnh siêu.Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, môi trường kinh doanh có sức hấp dẫn với nhiều nhà đầu tư nước ngoài (đầu tư nước ngoài năm 2007 đạt trên 20 tỷ USD), tốc độ tăng trưởng kinh tế cao ( năm 2007 tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là 8.5% đứng thứ hai thế giới chỉ sau Trung Quốc), thị trường chứng khoán và bất động sản hình thành và bắt đầu phát triển, cơ chế thị trường định hướng XHCN được định hình, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao rõ rệt (thành viên WTO, lần đầu tiên được bầu là thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc…). Bắt đầu từ cuối năm 2007, nền kinh tế Việt Nam xuất hiện nhiều yếu tố thể hiện sự bất ổn của tăng trưởng kinh tế quá nóng. Lạm phát tăng cao, trong 6 tháng đầu năm 2008 lạm phát đã lên tới 18,44% so với tháng 12/2007. Chỉ số lạm phát tăng cao đã gây nên những hệ lụy rất lớn trong đời sống xã hội, nhất là đến nông dân và những người có thu nhập thấp, đe dọa tính ổn định vĩ mô, tác động đến môi trường kinh doanh, đầu tư và tăng trưởng, những thành tựu của công cuộc xóa đói giảm nghèo, gây tâm lý bất an cho các nhà đầu tư và người dân. Nguyên nhân dẫn đến sự tăng nhanh của chỉ số lạm phát là do quá trình tăng trưởng kinh tế của nước ta thiếu bền vững, tăng trưởng GDP cao nhưng chủ yếu tăng trưởng theo chiều rộng, hiệu quả đầu tư thấp (chỉ số ICOR cao). Đầu tư công của nhà nước không đồng bộ, hiệu quả chưa cao thể qua nhiều công trình được nhà nước đầu tư hàng chục tỷ đồng nhưng xây dựng kém chất lượng gây lãng phí thời gian và tiền của. Kết quả của đầu tư ồ ạt, chạy theo số lượng là hàng loạt các công trình trị giá hàng tỷ đô la Mỹ ở các địa phương, các tập đoàn kinh tế liên quan đến năng lượng, kết cấu hạ tầng nguồn nhân lực ở tầm kinh tế quốc dân, rất quan trọng cho quốc kế sinh nhai đã được triển khai nhanh chóng, thiếu đi sự thẩm định cần thiết của các chuyên gia. Tình trạng này làm cho sự cân bằng các nguồn lực trong nền kinh tế bị phá vỡ. Thêm vào đó là sự quản lý kinh tế lỏng lẻo, tập trung đầu tư cho các tập đoàn kinh tế nhà nước vốn không được xây dựng trên nền tảng chắc chắn mà chỉ thí điểm với nhiều ưu tiên trong quá trình hoạt động, để cho các tập đoàn này tự do phát triển sang nhiều lĩnh vực khác như đầu tư vào chứng khoán, thị trường bất động sản, ngân hàng thậm chí là thành lập các ngân hàng thương mại, đã làm cung tín dụng trong nước tăng rất cao, lạm phát tăng vọt lên 25%, nhập siêu vượt quá mức an toàn, chứng khoán sụt giảm ở mức kỷ lục, bong bóng thị trường bất động sản bị vỡ. Trước tình hình đó, từ tháng 3/2008 Chính phủ đã đưa 8 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội. Lãi suất cơ bản được nâng lên, đồng thời tăng tỉ lệ DTBB, phân bổ tín phiếu bắt buộc, cắt giảm đầu tư, chi tiêu chính phủ... Các biện pháp kiểm soát lạm phát gây ra gánh nặng cho các ngân hàng thương mại và những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặc dù lạm soát nhanh chóng được kìm lại nhưng thực chất trong nền kinh tế vẫn còn tồn đọng nhiều điểm yếu kém đặc biệt là trong khâu quản lý. Các ngân hàng gặp khó khăn trong huy động vốn, các doanh nghiệp nhỏ không thể xoay xở được vốn cho sản xuất. Chính phủ đã phải điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2008 từ 8,5-9% xuống còn 7%. Nền kinh tế chưa kịp định hình sau lạm phát thì những chấn động từ “cơn bão tài chính” toàn cầu tiếp tục làm tổn thương nền kinh tế nước
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2025 I Love Translation. All reserved.

E-mail: