Xác định giá trị EC công ty
định giá là quá trình cố gắng xác định các giá trị hoặc giá trị của một công ty. Nó được thực hiện với mục đích bán một công ty hoặc xác định giá trị của nó cho ra công chúng (IPO) hoặc cho một đề xuất sáp nhập. Trong bối cảnh EC, định giá thường xuyên được tiến hành để xác định một mức giá IPO hợp lý khi một công ty start-up đi công cộng hoặc được mua lại bởi một công ty khác. Ví dụ, trong năm 2014 Facebook trả $ 19 tỷ USD để có được dịch vụ nhắn tin What'sApp Inc.
Ba phương pháp định giá phổ biến nhất, theo Rayport và Jaworski (2004), là phương pháp so sánh, phương pháp hiệu quả tài chính, và các phương pháp đầu tư mạo hiểm:
Phương pháp so sánh được. Sử dụng phương pháp này, các nhà phân tích so sánh các công ty với các công ty tương tự dựa trên các yếu tố như nhiều càng tốt (ví dụ, kích thước, công nghiệp, cơ sở khách hàng, sản phẩm, tốc độ tăng trưởng, giá trị sổ sách, nợ, bán hàng, hoạt động tài chính). Ngoài ra, họ có thể nhìn vào xu hướng hiệu suất, các đội quản lý, và các tính năng khác. Một khó khăn lớn với phương pháp này là việc tìm kiếm thông tin như vậy cho các công ty tư nhân. Một khó khăn khác là thiếu các dữ liệu đó cho start-up.
Các phương pháp hiệu quả tài chính. Phương pháp này sử dụng dự đoán số tiền trong tương lai (thường là 5 năm), lưu chuyển tiền tệ, và như vậy, để tìm ra NPV của một công ty. Vấn đề chính với phương pháp này là trong việc xác định lãi suất chiết khấu.
Phương pháp đầu tư mạo hiểm. Đầu tư mạo hiểm (VC) đầu tư vào các công ty start-úp và thường đưa họ dù cho đợt IPO của họ. Họ có thể sử dụng một sự kết hợp ò hai phương pháp đầu tiên o công thức độc quyền của họ. Công ty VC có thể sử dụng một tỷ lệ chiết khấu rất cao (ví dụ, từ 30-70%). Khi các công ty thanh toán bằng cổ phiếu của họ, họ có xu hướng đồng ý để định giá cao hơn. Một ví dụ í mua lại của Apple Instagram trong năm 2012.
Chúng ta hãy nhìn vào một trong những đợt IPO thành công nhất của một công ty EC-Google. Google nổi IPO của nó vào mùa thu năm 2004, mục tiêu nó ở $ 85 cho mỗi cổ phiếu. Trong vòng một vài tuần, giá cổ phiếu tăng hơn gấp đôi, đạt trên 450 $ vào cuối năm 2005, $ 500 trong năm 2006, hơn 700 $ trong năm 2007, và hơn $ 1100 trong năm 2014, đem lại cho Google một vốn hóa thị trường của $ 350 tỷ đồng. Facebook ra công chúng vào năm 2013 với giá $ 38 một cổ phiếu. Làm giá trị của nó trong năm 2014 ước đạt trên 200 tỷ $. Việc tăng giá cổ phiếu chỉ ra rằng các nhà đầu tư đã sẵn sàng trả phí rất lớn cho hoạt động sau và xác định giá trị dự đoán. Nhiều quisitions ac và sáp nhập từ năm 1996 đến năm 2001 liên quan đến định giá cao đến mức phi, và do đó đã mua lại mạng xã hội từ năm 2005 đến năm 2014. Ví dụ, lưu ý rằng, khi thường xuyên trả theo hình thức chứng khoán, không phải tiền mặt, định giá cao như vậy đó là thích hợp hơn. Google cũng đã sử dụng chiến lược này để có được các công ty khác. Trong năm 2010, Tập đoàn trên đã từ chối lời đề nghị của $ 6000000000 của Google. Nó đã đi công cộng như một IPO tại thị trường chứng khoán trong năm 2011 với $ 20000000000 định giá. Tuy nhiên, tháng 5 năm 2014 mức giảm giá đến khoảng $ 4,5 tỷ USD.
Tóm lại, tính kinh tế của EC cho phép các công ty để cạnh tranh hơn và có lợi hơn. EC kinh tế cũng cho phép chúng phát triển nhanh hơn, cộng tác tốt hơn, cung cấp môi trường khách hàng tuyệt vời, ở đây, những người tận dụng những cơ hội này sẽ nổi trội; phần còn lại được cam chịu tầm thường hay thất bại.
Một khi dự án EC được biện minh, các hệ thống cần phải được phát triển.
CÂU HỎI PHẦN 14,6 ĐÁNH GIÁ
1. Làm thế nào để tác động EC đường cong chi phí sản xuất?
2. Xác định chi phí giao dịch. Liệt kê các loại chính và giải thích cách EC có thể giảm chi phí đó.
3. Làm thế nào EC có thể tăng doanh thu?
4. Làm thế nào EC có thể làm tăng lợi thế cạnh tranh cho một công ty?
5. Những lợi ích của việc tăng tầm là gì? Làm thế nào EC có thể giúp?
6. Giải thích tác động của EC về phân biệt sản phẩm và sự nhanh nhẹn.
7. Xác định trị giá. Tại sao nó quá cao đối với một số EC stast-up?
đang được dịch, vui lòng đợi..
