Có một nền văn học đồ sộ về hiệu quả của viện trợ nước ngoài trên
growth.1 kinh tế Một bản tóm tắt công bằng sẽ được rằng văn học này
không cung cấp bằng chứng mạnh mẽ của cả một tương quan tích cực hay tiêu cực
giữa các luồng viện trợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế của các nước nghèo.
Sự vắng mặt về tương quan tích cực mạnh mẽ là đặc biệt đáng ngạc nhiên
vì mục đích chính của hầu hết các dòng viện trợ là để đẩy mạnh kinh tế
phát triển của người nhận. Điều gì có thể giải thích sự thiếu bằng chứng
cho viện trợ nước ngoài thúc đẩy tăng trưởng kinh tế?
Một câu trả lời có thể có thể được rằng có những chi phí phát sinh từ
khoản viện trợ đó bù đắp những lợi nhuận trong đó bao gồm mức độ cao hơn của vật lý
đầu tư, giáo dục tốt hơn, và sức khỏe, tất cả các thanh toán bởi tài nguyên
chuyển. Các phân tích cổ điển của những chi phí đi lại cho các Keynes-
Ohlin tranh luận về tác động của việc chuyển nước ngoài (như viện trợ) trên
tỷ giá thực tế. Đối với các trường hợp viện trợ nước ngoài, công việc tinh là van Wijnbergen (1985, 1986) xây dựng trên công việc của Corden và Neary
(1982) trong bối cảnh của những khám phá nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Trong một mô hình hai tốt đơn giản, tăng cường viện trợ sẽ có hai hiệu ứng. Đầu tiên,
viện trợ có thể không cân đối được mục tiêu mở rộng phi thương mại
dịch vụ như xây dựng, chăm sóc sức khỏe và giáo dục cho đó có
là nhu cầu chưa được đáp ứng đáng kể. Điều này sẽ làm tăng tiền lương trong khu vực,
(cho một nguồn cung cấp cố định của lao động có tay nghề cao trong ngắn hạn), sẽ vẽ tay nghề
lao động sang khu vực phi thương mại, và sẽ tăng lương tổng thể. Cho
rằng giá quốc tế của hàng hoá mua bán là cố định, lương cao hơn trong
các điều khoản giao dịch của hàng hóa sẽ làm giảm lợi nhuận của ngành được giao dịch, khả năng cạnh tranh,
và dẫn đến một sự suy giảm trong xuất khẩu. Trong Corden và Neary (1982) 's
ngữ, đây là hiệu ứng chuyển nguồn tài nguyên
đang được dịch, vui lòng đợi..