1. Giới thiệuVật liệu trầm tích được tạo ra do quá trình phong hóa và  dịch - 1. Giới thiệuVật liệu trầm tích được tạo ra do quá trình phong hóa và  Việt làm thế nào để nói

1. Giới thiệuVật liệu trầm tích đượ

1. Giới thiệu
Vật liệu trầm tích được tạo ra do quá trình phong hóa và phá hủy kiến tạo. Sản phẩm của phá huỷ kiến tạo được sinh ra gắn liền với chuyển động của vỏ Trái Đất như đứt gãy, chuyển động khối tảng, nén ép nâng trồi, tạo núi và quá trình sụt lún nhiệt tạo các bồn trũng trầm tích. Chúng ta dễ dàng nhận thấy các vật liệu có kích thước lớn từ hàng decimet trở lên như khối, tảng xếp chồng chất ngổn ngang ở bờ biển Quy Nhơn, Khánh Hoà, Phú Quốc, Bắc Cửa Lò - Nghệ An v.v... đến các vật liệu khối, tảng, cuội, sỏi được mài tròn nằm trên các lòng suối và thượng nguồn các con sông đến các vật liệu dăm, sạn sắc cạnh rất phổ biến trên các sườn núi và thung lũng kiến tạo. Chúng là sản phẩm nghiền nát của đá gốc trải qua nhiều giai đoạn, phân bố ở ranh giới các mảng, vi mảng và các khối tảng kiến tạo.
2. Phong hóa
Phong hoá là quá trình phá huỷ đá gốc. thành tạo các vật liệu trầm tích dưới tác dụng của các yếu tố vật lý và hoá học (không khí, nước, băng hà, sự thay đổi nhiệt độ) và hoạt động của sinh vật trong điều kiện bình thường trên bề mặt Trái Đất.
2.1. Phong hóa cơ học
Quá trình biến đá gốc nguyên khối thành những sản phẩm vụn cơ học có kích thước từ vài mm đến 0,01mm mà không làm thay đổi thành phần khoáng vật và thành phần hoá học của chúng.
Sản phẩm phong hóa cơ học
Biến đá gốc nguyên khối thành những tập hợp hạt vụn có kích thước từ vài mm đến 0,01mm mà không làm thay đổi thành phần khoáng vật và thành phần hoá học của chúng.
Tác nhân phong hóa cơ học
- Sự thay đổi nhiệt độ
Sự thay đổi nhiệt độ giữa ngày và đêm, giữa mùa đông và mùa hè là yếu tố làm thay đổi thể tích của khoáng vật. Hệ số co giãn của các khoáng vật rất khác nhau, ngay cả trong một khoáng vật trục dài co giãn cũng lớn hơn trục ngắn. Vì vậy khi đá bị nóng lên hay lạnh đi đều là nguyên nhân tạo ra vi khe nứt tại ranh giới tiếp xúc giữa các hạt khoáng vật, các vi khe nứt giữa các hạt này sẽ gặp các khe nứt lớn hơn và khe nứt kiến tạo rồi hình thành một mạng lưới khe nứt mắt thường có thể nhìn thấy được. Dần dần nhờ nước ngầm, nước chảy bề mặt hoặc do nước đóng băng vào khe nứt (vùng khí hậu ôn đới và hàn đới) làm cho các khe nứt này được mở rộng rồi phá vỡ kiến trúc các khối đá để biến thành các hạt vụn riêng lẻ. Quá trình đó dễ nhận thấy ở những vùng có khí hậu khắc nghiệt như Trung Á và các miền lân cận sa mạc.
- Sự phá huỷ đá do nước chảy
Khi đá đã có khe nứt do hoạt động kiến tạo hay sự thay đổi nhiệt độ, hoạt động nước chảy theo khe nứt là nguyên nhân trực tiếp phá huỷ các đá nhanh hơn. Lực của dòng chảy bề mặt (dòng chảy tạm thời, các dòng thác …) phụ thuộc vào trắc diện địa hình. Quá trình xâm thực theo nguyên tắc giật lùi của mương xói, đầu tiên là xâm thực sâu sau đó là xâm thực ngang mở rộng lòng. Kết quả là nguồn vật liệu vụn cơ học do nước chảy xâm thực, xói mòn đưa vào trong môi trường vận chuyển và lắng đọng xảy ra liên tục và chiếm một khối lượng rất lớn của vật liệu trầm tích.
- Sự phá huỷ đá do sóng biển
Sóng biển là một yếu tố động lực phá huỷ đá hết sức mạnh mẽ. Sự phá huỷ các bờ đá do những cơn sóng bão có thể làm sụp đổ các khối đá khổng lồ xuống biển, đánh tan các tảng lớn thành dăm sạn nhờ hệ thống khe nứt kiến tạo đã có sẵn. Vì vậy những vụng có bờ biển hiểm trở, đá gốc tiếp xúc với biển đều gặp khối tảng nằm xen lẫn với cuội sỏi sạn và dăm. Hoạt động sóng vỗ bờ thường xuyên là yếu tố tiếp tục làm vỡ vụn, mài tròn vật liệu cơ học thô để tạo thêm vật liệu cơ học mịn như cát và bột.
- Sự phá huỷ đá do nước đóng băng
Hiện tượng nước đóng băng trên khe nứt lỗ hổng của đá xảy ra bình thường vào mùa đông khi nhiệt độ hạ xuống dưới 00C đối với vùng có khí hậu lạnh. Quá trình đó làm tăng thể tích của nước tới 9% và kết quả là làm phá vỡ đá tựa như các "nêm băng" đóng vào đá.
2.2. Phong hóa hóa học
Phong hoá hoá học là quá trình phân huỷ và biến đổi thành phần khoáng vật và thành phần hoá học của đá gốc dưới tác dụng của các yếu tố như: nước, oxy, carbonic và axít hữu cơ.
Sản phẩm phong hóa hóa học
Sản phẩm phong hóa hóa học bao gồm: khoáng vật sét, dung dịch keo và dung dịch thật (dưới dạng ion). Mỗi loại sản phẩm này tạo thành một nhóm đá độc lập như nhóm đá sét, nhóm đá silic, nhóm đá sắt, nhóm đá carbonat, nhóm đá sulfat..
Nhóm đá sét bao gồm chủ yếu là các khoáng vật sét như kaolinit, hydromica, monmorilonit...
Nhóm đá silic bao gồm các khoáng vật opan, calcedon
Nhóm đá carbonat bao gồm đá vôi, dolomit, siderit..
Nhóm đá sunfat bao gồm đá thạch cao, anhydrit
Tác nhân phong hóa hóa học
- Phá huỷ do nước
Nước là một môi trường hoạt động tích cực, là tác nhân chính của phong hoá hoá học.
Nước luôn bị phân ly tạo thành H+ và OH-:
H2O  H+ + OH -
Nhiệt độ càng tăng thì sự phân ly càng mạnh. Khi nhiệt độ tăng lên 300C thì độ phân ly tăng lên 2 lần. Người ta dùng chỉ số pH để chỉ độ axit hay kiềm của môi trường nước và được tính như sau:
pH = - lgH+
Như vậy trị số pH tăng khi nồng độ H+ giảm và ngược lại:
Khi pH > 7 nước có phản ứng kiềm
Khi pH = 7 nước có phản ứng trung tính
Khi pH < 7 nước có phản ứng axit
Hoạt động của nước bao gồm ba quá trình: hyđrat hoá, hoà tan và thuỷ phân
- Quá trình biến đổi do oxy (O2)
Oxy trong không khí chiếm 21% và oxy hoà tan trong nước chiếm 30 - 35%, là nhân tố phong hoá quan trọng thứ hai sau nước.
Tác dụng của oxy là quá trình oxy hoá các nguyên tố hoá trị thấp thành nguyên tố hoá trị cao hơn, bền vững trong điều kiện trên mặt.
Trong tự nhiên oxy chỉ phân bố trong một giới hạn nhất định. Mặt giới hạn dưới gọi là mặt giới hạn oxy hoá - khử, mặt này thay đổi phụ thuộc vào tính chất từng loại đá, địa hình, khí hậu và độ sâu của mực nước ngầm.
- Quá trình biến đổi do CO2
Cùng với nước và O2, CO2 trở thành một nhân tố tích cực trong quá trình phong hoá. CO2 chiếm 0,03% trong không khí, đồng thời cũng là thành phần khí hoà tan trong nước và được tạo ra từ hoạt động sinh vật và hoạt động núi lửa.
Trong môi trường nước CO2 tác dụng với nước để biến thành axit carbonic.
2.3. Phong hóa sinh học
Có một số loài thực vật sống trên đá và lấy một số nguyên tố trong đó để sống như K, Ca, SiO2, Mg, Na, P, S, Al, Fe v.v... và nhả ra một số axit tác dụng vào đá.
Quá trình phá huỷ đá được bắt đầu là vi khuẩn và tảo sau đó là vi thực vật như diatome, nấm và thực vật ưa đá (rêu đá), cuối cùng là thực vật cao đẳng.
Kết quả phân tích trong tro của thực vật ưa đá hạ đẳng có Al và SiO2 chứng tỏ loại thực vật này có khả năng phá vỡ mối liên kết của silicat alumin.
Khi thực vật chết đi tạo thành axit humic. Loại axit này thực chất là một chất keo mang điện tích âm có khả năng hấp phụ Al+3 và Fe+3 để tạo nên một hợp chất dạng phức keo khá linh động được đưa đi rất xa.
2. Vỏ phong hóa
Vỏ phong hoá là sản phẩm phong hoá của đá gốc được giữ nguyên tại chỗ và có cấu trúc phân đới theo phương thẳng đứng.
2.1. Tính phân đới của vỏ phong hóa
Vỏ phong hoá của bất kỳ đá gốc nào cũng có tính phân đới. Tên gọi và số lượng các đới của vỏ phong hoá phụ thuộc vào các điều kiện sau đây:
- Khí hậu
- Địa hình
- Độ ẩm không khí
- Thành phần thạch học của đá gốc
- Mạng lưới thuỷ văn và độ che phủ của cây cối
- Gương nước ngầm
Nếu vùng khí hậu nhiệt đới ẩm như nước ta, các đá gốc giàu alumosilicat lộ ra ở địa hình gò đồi ven rìa đồng bằng thì điều kiện phong hoá hoá học được coi là lý tưởng, và sẽ tạo nên vỏ phong hóa phân đới đầy đủ. Trong trường hợp thiếu một trong các điều kiện nói trên vỏ phong hóa thường có sự phân đới không đầy đủ.
Phân đới đầy đủ
Vỏ phong hóa phân đới đầy đủ rất phổ biến trên đá mafic và trung tính ở vùng khí hậu nhiệt đới ẩm, bao gồm 5 đới từ dưới lên:
- Đới đá gốc còn tươi
- Đới vỡ vụn (saprolit)
- Đới hỗn hợp (mảnh vụn đá gốc và sét)
- Đới sét loang lổ (litoma)
- Đới laterit
Phân đới không đầy đủ
Vỏ phong hóa phân đới không đầy đủ là vỏ phong hóa chỉ có mặt từ 2 đến 4 đới. Đới bị khuyết thường là đới laterit, đới laterit + litoma tính từ trên xuống; vỏ phong hóa không đầy đủ thường gặp ở các vùng khí hậu ôn đới và ở vùng nhiệt đới song nằm trên nhóm đá axit (granit, ryolit, granodiorit) [H. 1].
2.2. Mặt giới hạn oxy hóa khử
Là bề mặt ranh giới giữa môi trường khử (ở dưới) và oxy hóa (ở trên). Đây là giới hạn xâm nhập của oxy tự do xuống các thể đất đá của bề mặt Trái đất. Đối với các đá gốc bị nứt nẻ do tác động kiến tạo mặt giới hạn oxy hóa – khử có thể nằm sâu hàng km. Trong lúc đó ở các đầm lầy thì chúng nằm ngay trên bề mặt.
3. Xói mòn
3.1. Xói mòn do dòng chảy tạm thời
Xói mòn do dòng chảy tạm thời được tạo ra trong những cơn mưa rào dữ dội. Đó là các mương xói hoạt động vào mùa mưa nó có vai trò quan trọng là làm xói mòn và đưa vỏ phong hoá cũng như các sản phẩm phá huỷ kiến tạo từ vị trí cao xuống đ
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Việt) 1: [Sao chép]
Sao chép!
1. Giới thiệuCông suất trầm tích được chức ra làm quá trình phong hóa và phá hủy kiến chức. Ở sanh của phá huỷ kiến chức được sinh ra gắn liền với chuyển động của vỏ Trái đất như đứt gãy, chuyển động khối tảng, nén ép nâng trồi, chức núi và quá trình sụt lún nhiệt chức các bồn trũng trầm tích. Chúng ta dễ dàng nhận thấy các công suất có kích thước lớn từ hàng decimet trở lên như khối, tảng xếp chồng chất ngổn ngang ở bờ dưới Quy Nhơn, Khánh Hoà, Phú Quốc, Bắc Cửa Lò - Nghệ An v.v... Đến các công suất khối, tảng, cuội, sỏi được mài tròn nằm trên các lòng suối và thượng nguồn các con sông đến các công suất dăm, sạn sắc cạnh rất phổ biến trên các sườn núi và thung lũng kiến chức. Chúng là ở sanh nghiền nát của đá gốc trải qua nhiều giai đoạn, phân cách ở ranh giới các mảng, vi mảng và các khối tảng kiến chức.2. Phong hóaPhong hóa là quá trình phá huỷ đá gốc. thành chức các công suất trầm tích dưới NXB Scholars của các yếu tố vật lý và hóa học (không Phật, nước, băng hà, sự thay đổi nhiệt độ) và hoạt động của sinh vật trong ban kiện bình thường trên bề mặt Trái đất.2.1. Phong hóa cơ họcQuá trình biến đá gốc nguyên khối thành những ở sanh giấy vụn cơ học có kích thước từ vài mm đến 0, 01mm mà không làm thay đổi thành phần khoáng vật và thành phần hóa học của chúng.Ở sanh phong hóa cơ họcBiến đá gốc nguyên khối thành những tổ hợp hạt giấy vụn có kích thước từ vài mm đến 0, 01mm mà không làm thay đổi thành phần khoáng vật và thành phần hóa học của chúng.NXB nhân phong hóa cơ học-Sự thay đổi nhiệt độSự thay đổi nhiệt độ giữa ngày và đêm, giữa thí đông và thí hè là yếu tố làm thay đổi mùa tích của khoáng vật. Hay số co giãn của các khoáng vật rất ông nội, ngay đoàn trong một khoáng vật trục 戴思杰 co giãn cũng lớn hơn trục ngắn. Vì vậy khi đá bị nóng lên hay lạnh đi đều là nguyên nhân chức ra vi khe nứt tại ranh giới truyện xúc giữa các hạt khoáng vật, các vi khe nứt giữa các hạt này sẽ gặp các khe nứt lớn hơn và khe nứt kiến chức rồi chuyển thành một mạng lưới khe nứt mắt thường có Bulgaria nhìn thấy được. Bài bài nhờ nước ngầm, nước chảy bề mặt hoặc làm nước Third băng vào khe nứt (vùng Phật tỉnh hậu ôn đới và hàn đới) làm cho các khe nứt này được mở rộng rồi phá vỡ kiến trúc các khối đá tiếng biến thành các hạt giấy vụn riêng lẻ. Quá trình đó dễ nhận thấy ở những vùng có Phật tỉnh hậu khắc nghiệt như Trung Á và các miền lân cận sa mạc.-Sự phá huỷ đá làm nước chảyKhi đá đã có khe nứt do hoạt động kiến chức hay sự thay đổi nhiệt độ, hoạt động nước chảy theo khe nứt là nguyên nhân rục truyện phá huỷ các đá nhanh hơn. Lực của dòng chảy bề mặt (dòng chảy Nina thời, các dòng thác...) phụ thuộc vào trắc diện địa chuyển. Quá trình xâm thực theo nguyên tắc giật lùi của mương xói, đầu tiên là xâm thực sâu sau đó là xâm thực ngang mở rộng lòng. Kết tên là nguồn công suất giấy vụn cơ học làm nước chảy xâm thực, xói mòn đưa vào trong môi trường vận chuyển và lắng đọng xảy ra liên tục và chiếm một khối lượng rất lớn của công suất trầm tích.-Sự phá huỷ đá làm sóng dướiSóng dưới là một yếu tố động lực phá huỷ đá hết sức mạnh mẽ. Sự phá huỷ các bờ đá làm những cơn sóng đang có Bulgaria làm sụp đổ các khối đá khổng lồ xuống dưới, đánh tan các tảng lớn thành dăm sạn nhờ hay thống khe nứt kiến chức đã có sẵn. Vì vậy những vụng có bờ dưới hiểm trở, đá gốc truyện xúc với dưới đều gặp khối tảng nằm xen lẫn với cuội sỏi sạn và dăm. Hoạt động sóng vỗ bờ thường xuyên là yếu tố truyện tục làm vỡ giấy vụn, mài tròn công suất cơ học thô tiếng chức thêm công suất cơ học mịn như cát và bột.-Sự phá huỷ đá làm nước Third băngHiện tượng nước Third băng trên khe nứt lỗ hổng của đá xảy ra bình thường vào thí đông khi nhiệt độ hạ xuống dưới 00C đối với vùng có Phật tỉnh hậu lạnh. Quá trình đó làm tăng Bulgaria tích của nước tới 9% và kết tên là làm phá vỡ đá tựa như các "nêm băng" Third vào đá.2.2. Phong hóa hóa họcPhong hóa hóa học là quá trình phân huỷ và biến đổi thành phần khoáng vật và thành phần hóa học của đá gốc dưới NXB Scholars của các yếu tố như: nước, oxy, cacbonic và axít hữu cơ.Ở sanh phong hóa hóa họcỞ sanh phong hóa hóa học bao gồm: khoáng vật sét, dung dịch keo và dung dịch thật (dưới dạng ion). Mỗi loại ở sanh này chức thành một nhóm đá độc lập như nhóm đá sét, nhóm đá silic, nhóm đá sắt, nhóm đá carbonat, nhóm đá sulfat...Nhóm đá sét bao gồm hào yếu là các khoáng vật sét như kaolinit, hydromica, monmorilonit...Nhóm đá silic bao gồm các khoáng vật opan, calcedonNhóm đá carbonat bao gồm đá vôi, dolomit, siderit...Nhóm đá sunfat bao gồm đá thạch cao, anhydritNXB nhân phong hóa hóa học-Phá huỷ do nướcNước là một môi trường hoạt động tích cực, là NXB nhân chính của phong hóa hóa học.Nước luôn bị phân ly chức thành H + và OH-: H2O  H + + OH-Nhiệt độ càng tăng thì sự phân ly càng mạnh. Khi nhiệt độ tăng lên 300C thì độ phân ly tăng lên 2 lần. Người ta dùng chỉ số VN tiếng chỉ độ axit hay kiềm của môi trường nước và được tính như sau: pH = - lgH +Như vậy trị số pH tăng khi nồng độ H + giảm và ngược lại:Khi pH > 7 nước có phản ứng kiềmKhi pH = 7 nước có phản ứng trung tínhKhi pH < 7 nước có phản ứng axitHoạt động của nước bao gồm ba quá trình: hyđrat hóa, hoà tan và thuỷ phân-Quá trình biến đổi làm oxy (O2)Oxy trong không Phật chiếm 21% và oxy hoà tan trong nước chiếm 30-35%, là nhân tố phong hóa quan trọng thứ hai sau nước.NXB Scholars của oxy là quá trình oxy hóa các nguyên tố hoá trị thấp thành nguyên tố hóa trị cao hơn, bền vững trong ban kiện trên mặt.Trong tự nhiên oxy chỉ phân cách trong một giới hạn nhất định. Mặt giới hạn dưới gọi là mặt giới hạn oxy hóa - khử, mặt này thay đổi phụ thuộc vào tính chất phần loại đá, địa chuyển, Phật tỉnh hậu và độ sâu của mực nước ngầm.-Quá trình biến đổi làm CO2Cùng với nước và O2, CO2 trở thành một nhân tố tích cực trong quá trình phong hóa. CO2 chiếm 0,03% trọng không Phật, các đồng thời cũng là thành phần Phật hoà tan trong nước và được chức ra từ hoạt động sinh vật và hoạt động núi lửa.Trong môi trường nước CO2 NXB Scholars với nước tiếng biến thành axit cacbonic.2.3. Phong hóa sinh họcCó một số loài thực vật sống trên đá và lấy một số nguyên tố trong đó tiếng sống như K, Ca, SiO2, Mg, Na, P, S, Al, Fe v.v... và nhả ra một số axit NXB Scholars vào đá.Quá trình phá huỷ đá được bắt đầu là vi khuẩn và tảo sau đó là vi thực vật như diatome, nấm và thực vật ưa đá (rêu đá), cuối cùng là thực vật cao đẳng.Kết tên phân tích trong tro của thực vật ưa đá hạ đẳng có Al và SiO2 chứng tỏ loại thực vật này có gièm năng phá vỡ mối liên kết của silicat nhôm.Khi thực vật chết đi chức thành axit humic. Loại axit này thực chất là một chất keo mang điện tích đảm có gièm năng hấp phụ Al + 3 và Fe + 3 tiếng chức nên một hợp chất dạng phức keo khá linh động được đưa đi rất xa.2. Vỏ phong hóaVỏ phong hóa là ở phẩm phong hóa của đá gốc được giữ nguyên tại chỗ và có cấu trúc phân đới theo phương thẳng đứng.2.1. Tính phân đới của vỏ phong hóaVỏ phong hóa của bất kỳ đá gốc nào cũng có tính phân đới. Tên gọi và số lượng các đới của vỏ phong hóa phụ thuộc vào các ban kiện sau đây:-Tỉnh hậu Phật-Địa chuyển-Độ ẩm không Phật-Thành phần thạch học của đá gốc-Mạng lưới thuỷ văn và độ che phủ của cây cối-Gương nước ngầmNếu vùng Phật tỉnh hậu nhiệt đới ẩm như nước ta, các đá gốc giàu alumosilicat lộ ra ở địa chuyển gò đồi ven rìa đồng bằng thì Ban kiện phong hóa hóa học được coi là lý tưởng, và sẽ chức nên vỏ phong hóa phân đới đầy đủ. Trong trường hợp thiếu một trong các ban kiện đảm trên vỏ phong hóa thường có sự phân đới không đầy đủ.Phân đới đầy đủVỏ phong hóa phân đới đầy đủ rất phổ biến trên đá mafic và trung tính ở vùng Phật tỉnh hậu nhiệt đới ẩm, bao gồm 5 đới từ dưới lên:-Đới đá gốc còn tươi-Giấy vụn vỡ Đới (saprolit)-Đới hỗn hợp (mảnh giấy vụn đá gốc và sét)-Đới sét loang lổ (litoma)-Đới lateritPhân đới không đầy đủVỏ phong hóa phân đới không đầy đủ là vỏ phong hóa chỉ có mặt từ 2 đến 4 đới. Đới bị khuyết thường là đới laterit, đới laterit + litoma tính từ trên xuống; vỏ phong hóa không đầy đủ thường gặp ở các vùng Phật tỉnh hậu ôn đới và ở vùng nhiệt đới bài hát nằm trên nhóm đá axit (granit, ryolit, granodiorit) [H. 1].2.2. Mặt giới hạn oxy hóa khửLà bề mặt ranh giới giữa môi trường khử (ở dưới) và oxy hóa (ở trên). Đây là giới hạn xâm nhập của oxy tự làm xuống các Bulgaria đất đá của bề mặt Trái đất. Đối với các đá gốc bị nứt nẻ làm NXB động kiến chức mặt giới hạn oxy hóa-khử có Bulgaria nằm sâu hàng km. trọng lúc đó ở các đầm lầy thì chúng nằm ngay trên bề mặt. 3. Xói mòn3.1. Xói mòn làm dòng chảy Nina thờiXói mòn làm dòng chảy Nina thời được chức ra trong những cơn mưa rào dữ dội. Đó là các mương xói hoạt động vào thí mưa nó có vai trò quan trọng là làm xói mòn và đưa vỏ phong hoá cũng như các ở sanh phá huỷ kiến chức từ vị trí cao xuống đ
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Việt) 2:[Sao chép]
Sao chép!
1. Giới thiệu
Vật liệu trầm tích được tạo ra do quá trình phong hóa và phá hủy kiến tạo. Sản phẩm của phá huỷ kiến tạo được sinh ra gắn liền với chuyển động của vỏ Trái Đất như đứt gãy, chuyển động khối tảng, nén ép nâng trồi, tạo núi và quá trình sụt lún nhiệt tạo các bồn trũng trầm tích. Chúng ta dễ dàng nhận thấy các vật liệu có kích thước lớn từ hàng decimet trở lên như khối, tảng xếp chồng chất ngổn ngang ở bờ biển Quy Nhơn, Khánh Hoà, Phú Quốc, Bắc Cửa Lò - Nghệ An v.v... đến các vật liệu khối, tảng, cuội, sỏi được mài tròn nằm trên các lòng suối và thượng nguồn các con sông đến các vật liệu dăm, sạn sắc cạnh rất phổ biến trên các sườn núi và thung lũng kiến tạo. Chúng là sản phẩm nghiền nát của đá gốc trải qua nhiều giai đoạn, phân bố ở ranh giới các mảng, vi mảng và các khối tảng kiến tạo.
2. Phong hóa
Phong hoá là quá trình phá huỷ đá gốc. thành tạo các vật liệu trầm tích dưới tác dụng của các yếu tố vật lý và hoá học (không khí, nước, băng hà, sự thay đổi nhiệt độ) và hoạt động của sinh vật trong điều kiện bình thường trên bề mặt Trái Đất.
2.1. Phong hóa cơ học
Quá trình biến đá gốc nguyên khối thành những sản phẩm vụn cơ học có kích thước từ vài mm đến 0,01mm mà không làm thay đổi thành phần khoáng vật và thành phần hoá học của chúng.
Sản phẩm phong hóa cơ học
Biến đá gốc nguyên khối thành những tập hợp hạt vụn có kích thước từ vài mm đến 0,01mm mà không làm thay đổi thành phần khoáng vật và thành phần hoá học của chúng.
Tác nhân phong hóa cơ học
- Sự thay đổi nhiệt độ
Sự thay đổi nhiệt độ giữa ngày và đêm, giữa mùa đông và mùa hè là yếu tố làm thay đổi thể tích của khoáng vật. Hệ số co giãn của các khoáng vật rất khác nhau, ngay cả trong một khoáng vật trục dài co giãn cũng lớn hơn trục ngắn. Vì vậy khi đá bị nóng lên hay lạnh đi đều là nguyên nhân tạo ra vi khe nứt tại ranh giới tiếp xúc giữa các hạt khoáng vật, các vi khe nứt giữa các hạt này sẽ gặp các khe nứt lớn hơn và khe nứt kiến tạo rồi hình thành một mạng lưới khe nứt mắt thường có thể nhìn thấy được. Dần dần nhờ nước ngầm, nước chảy bề mặt hoặc do nước đóng băng vào khe nứt (vùng khí hậu ôn đới và hàn đới) làm cho các khe nứt này được mở rộng rồi phá vỡ kiến trúc các khối đá để biến thành các hạt vụn riêng lẻ. Quá trình đó dễ nhận thấy ở những vùng có khí hậu khắc nghiệt như Trung Á và các miền lân cận sa mạc.
- Sự phá huỷ đá do nước chảy
Khi đá đã có khe nứt do hoạt động kiến tạo hay sự thay đổi nhiệt độ, hoạt động nước chảy theo khe nứt là nguyên nhân trực tiếp phá huỷ các đá nhanh hơn. Lực của dòng chảy bề mặt (dòng chảy tạm thời, các dòng thác …) phụ thuộc vào trắc diện địa hình. Quá trình xâm thực theo nguyên tắc giật lùi của mương xói, đầu tiên là xâm thực sâu sau đó là xâm thực ngang mở rộng lòng. Kết quả là nguồn vật liệu vụn cơ học do nước chảy xâm thực, xói mòn đưa vào trong môi trường vận chuyển và lắng đọng xảy ra liên tục và chiếm một khối lượng rất lớn của vật liệu trầm tích.
- Sự phá huỷ đá do sóng biển
Sóng biển là một yếu tố động lực phá huỷ đá hết sức mạnh mẽ. Sự phá huỷ các bờ đá do những cơn sóng bão có thể làm sụp đổ các khối đá khổng lồ xuống biển, đánh tan các tảng lớn thành dăm sạn nhờ hệ thống khe nứt kiến tạo đã có sẵn. Vì vậy những vụng có bờ biển hiểm trở, đá gốc tiếp xúc với biển đều gặp khối tảng nằm xen lẫn với cuội sỏi sạn và dăm. Hoạt động sóng vỗ bờ thường xuyên là yếu tố tiếp tục làm vỡ vụn, mài tròn vật liệu cơ học thô để tạo thêm vật liệu cơ học mịn như cát và bột.
- Sự phá huỷ đá do nước đóng băng
Hiện tượng nước đóng băng trên khe nứt lỗ hổng của đá xảy ra bình thường vào mùa đông khi nhiệt độ hạ xuống dưới 00C đối với vùng có khí hậu lạnh. Quá trình đó làm tăng thể tích của nước tới 9% và kết quả là làm phá vỡ đá tựa như các "nêm băng" đóng vào đá.
2.2. Phong hóa hóa học
Phong hoá hoá học là quá trình phân huỷ và biến đổi thành phần khoáng vật và thành phần hoá học của đá gốc dưới tác dụng của các yếu tố như: nước, oxy, carbonic và axít hữu cơ.
Sản phẩm phong hóa hóa học
Sản phẩm phong hóa hóa học bao gồm: khoáng vật sét, dung dịch keo và dung dịch thật (dưới dạng ion). Mỗi loại sản phẩm này tạo thành một nhóm đá độc lập như nhóm đá sét, nhóm đá silic, nhóm đá sắt, nhóm đá carbonat, nhóm đá sulfat..
Nhóm đá sét bao gồm chủ yếu là các khoáng vật sét như kaolinit, hydromica, monmorilonit...
Nhóm đá silic bao gồm các khoáng vật opan, calcedon
Nhóm đá carbonat bao gồm đá vôi, dolomit, siderit..
Nhóm đá sunfat bao gồm đá thạch cao, anhydrit
Tác nhân phong hóa hóa học
- Phá huỷ do nước
Nước là một môi trường hoạt động tích cực, là tác nhân chính của phong hoá hoá học.
Nước luôn bị phân ly tạo thành H+ và OH-:
H2O  H+ + OH -
Nhiệt độ càng tăng thì sự phân ly càng mạnh. Khi nhiệt độ tăng lên 300C thì độ phân ly tăng lên 2 lần. Người ta dùng chỉ số pH để chỉ độ axit hay kiềm của môi trường nước và được tính như sau:
pH = - lgH+
Như vậy trị số pH tăng khi nồng độ H+ giảm và ngược lại:
Khi pH > 7 nước có phản ứng kiềm
Khi pH = 7 nước có phản ứng trung tính
Khi pH < 7 nước có phản ứng axit
Hoạt động của nước bao gồm ba quá trình: hyđrat hoá, hoà tan và thuỷ phân
- Quá trình biến đổi do oxy (O2)
Oxy trong không khí chiếm 21% và oxy hoà tan trong nước chiếm 30 - 35%, là nhân tố phong hoá quan trọng thứ hai sau nước.
Tác dụng của oxy là quá trình oxy hoá các nguyên tố hoá trị thấp thành nguyên tố hoá trị cao hơn, bền vững trong điều kiện trên mặt.
Trong tự nhiên oxy chỉ phân bố trong một giới hạn nhất định. Mặt giới hạn dưới gọi là mặt giới hạn oxy hoá - khử, mặt này thay đổi phụ thuộc vào tính chất từng loại đá, địa hình, khí hậu và độ sâu của mực nước ngầm.
- Quá trình biến đổi do CO2
Cùng với nước và O2, CO2 trở thành một nhân tố tích cực trong quá trình phong hoá. CO2 chiếm 0,03% trong không khí, đồng thời cũng là thành phần khí hoà tan trong nước và được tạo ra từ hoạt động sinh vật và hoạt động núi lửa.
Trong môi trường nước CO2 tác dụng với nước để biến thành axit carbonic.
2.3. Phong hóa sinh học
Có một số loài thực vật sống trên đá và lấy một số nguyên tố trong đó để sống như K, Ca, SiO2, Mg, Na, P, S, Al, Fe v.v... và nhả ra một số axit tác dụng vào đá.
Quá trình phá huỷ đá được bắt đầu là vi khuẩn và tảo sau đó là vi thực vật như diatome, nấm và thực vật ưa đá (rêu đá), cuối cùng là thực vật cao đẳng.
Kết quả phân tích trong tro của thực vật ưa đá hạ đẳng có Al và SiO2 chứng tỏ loại thực vật này có khả năng phá vỡ mối liên kết của silicat alumin.
Khi thực vật chết đi tạo thành axit humic. Loại axit này thực chất là một chất keo mang điện tích âm có khả năng hấp phụ Al+3 và Fe+3 để tạo nên một hợp chất dạng phức keo khá linh động được đưa đi rất xa.
2. Vỏ phong hóa
Vỏ phong hoá là sản phẩm phong hoá của đá gốc được giữ nguyên tại chỗ và có cấu trúc phân đới theo phương thẳng đứng.
2.1. Tính phân đới của vỏ phong hóa
Vỏ phong hoá của bất kỳ đá gốc nào cũng có tính phân đới. Tên gọi và số lượng các đới của vỏ phong hoá phụ thuộc vào các điều kiện sau đây:
- Khí hậu
- Địa hình
- Độ ẩm không khí
- Thành phần thạch học của đá gốc
- Mạng lưới thuỷ văn và độ che phủ của cây cối
- Gương nước ngầm
Nếu vùng khí hậu nhiệt đới ẩm như nước ta, các đá gốc giàu alumosilicat lộ ra ở địa hình gò đồi ven rìa đồng bằng thì điều kiện phong hoá hoá học được coi là lý tưởng, và sẽ tạo nên vỏ phong hóa phân đới đầy đủ. Trong trường hợp thiếu một trong các điều kiện nói trên vỏ phong hóa thường có sự phân đới không đầy đủ.
Phân đới đầy đủ
Vỏ phong hóa phân đới đầy đủ rất phổ biến trên đá mafic và trung tính ở vùng khí hậu nhiệt đới ẩm, bao gồm 5 đới từ dưới lên:
- Đới đá gốc còn tươi
- Đới vỡ vụn (saprolit)
- Đới hỗn hợp (mảnh vụn đá gốc và sét)
- Đới sét loang lổ (litoma)
- Đới laterit
Phân đới không đầy đủ
Vỏ phong hóa phân đới không đầy đủ là vỏ phong hóa chỉ có mặt từ 2 đến 4 đới. Đới bị khuyết thường là đới laterit, đới laterit + litoma tính từ trên xuống; vỏ phong hóa không đầy đủ thường gặp ở các vùng khí hậu ôn đới và ở vùng nhiệt đới song nằm trên nhóm đá axit (granit, ryolit, granodiorit) [H. 1].
2.2. Mặt giới hạn oxy hóa khử
Là bề mặt ranh giới giữa môi trường khử (ở dưới) và oxy hóa (ở trên). Đây là giới hạn xâm nhập của oxy tự do xuống các thể đất đá của bề mặt Trái đất. Đối với các đá gốc bị nứt nẻ do tác động kiến tạo mặt giới hạn oxy hóa – khử có thể nằm sâu hàng km. Trong lúc đó ở các đầm lầy thì chúng nằm ngay trên bề mặt.
3. Xói mòn
3.1. Xói mòn do dòng chảy tạm thời
Xói mòn do dòng chảy tạm thời được tạo ra trong những cơn mưa rào dữ dội. Đó là các mương xói hoạt động vào mùa mưa nó có vai trò quan trọng là làm xói mòn và đưa vỏ phong hoá cũng như các sản phẩm phá huỷ kiến tạo từ vị trí cao xuống đ
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2024 I Love Translation. All reserved.

E-mail: