Không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của các tổ chức tài chính trong bất kỳ nền kinh tế phát triển hay đang phát triển các tổ chức tài chính không chỉ giảm bớt dòng chảy tín dụng trong nền kinh tế mà còn nâng cao năng suất bằng cách làm sống lại các đầu tư (Richard, 2011). Tăng trưởng kinh tế ở bất cứ nước nào là không thể không có một lĩnh vực tài chính âm thanh (Rajaraman Visishtha, 2002). Thực hiện tốt các tổ chức tài chính là biểu tượng của sự thịnh vượng và tăng trưởng kinh tế ở bất kỳ quốc gia hoặc khu vực và hiệu suất kém của các tổ chức này không chỉ cản trở sự tăng trưởng kinh tế và cấu trúc của các khu vực cụ thể mà còn ảnh hưởng đến toàn thế giới (Khan và Senhadji, 2001) .
Trong vài thập kỷ qua, chúng tôi có thể nhìn thấy rất nhiều thất bại ngân hàng trong tất cả các nơi trên thế giới (Brownbridge và Harvey, 1998), và do những thất bại ngân hàng nhiều ngân hàng đã được đóng bởi cơ quan quản lý (Brownbridge, 1998). Những thất bại ngân hàng ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế bằng nhiều cách, trước hết là những thất bại ngân hàng gây ra cuộc khủng hoảng ngân hàng bằng cách làm tổn hại đến các lĩnh vực ngân hàng, thứ hai nó cũng làm giảm dòng chảy tín dụng trong nước mà cuối cùng ảnh hưởng đến hiệu quả và năng suất của các đơn vị kinh doanh (Chijoriga, 1997; Brownbridge và Harvey, 1998). Theo Brownbridge, (1998), nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng hầu hết các thất bại thời gian ngân hàng hoặc khủng hoảng ngân hàng là do các khoản vay không hiệu quả.
Không thực hiện khoản vay (nợ xấu) đã đạt được ý định của thế giới trong 3-4 thập kỷ qua như những tăng nợ xấu đang gây ra cuộc khủng hoảng ngân hàng được chuyển vào ngân hàng thất bại (Barr và Siems, 1994). Các khoản cho vay là một trong những nguyên nhân chính gây ra phá sản của các tổ chức tài chính và cuối cùng làm tổn thương toàn bộ nền kinh tế (Hou, 2007). Bằng cách xem xét những sự kiện đó là cần thiết để kiểm soát các khoản vay không biểu diễn cho sự tăng trưởng kinh tế trong nước, nếu không các nguồn lực có thể bị kẹt trong các dự án và các ngành không có lợi mà không chỉ gây thiệt hại cho sự ổn định tài chính mà còn là sự tăng trưởng kinh tế. Để kiểm soát các khoản vay không thực hiện nó là cần thiết để hiểu được nguyên nhân gốc rễ của các loại cho vay thực hiện không trong lĩnh vực tài chính nói riêng (Rajaraman Visishtha, 2002). Điều quan trọng là phải hiểu các hiện tượng và bản chất của các khoản vay không hiệu quả ; nó có nhiều ý nghĩa, như tổn thất cho vay ít hơn là chỉ báo của hệ thống tài chính tương đối vững chắc hơn, mặt khác cao cấp các khoản vay không thực hiện được chỉ tiêu của hệ thống tài chính không an toàn và một tín hiệu đáng lo ngại về quản lý ngân hàng và cơ quan quản lý, nếu chúng ta nhìn vào những nguyên nhân của suy thoái kinh tế lớn 2007-2009 đã làm hư hại không chỉ nền kinh tế của Hoa Kỳ mà còn các nền kinh tế của nhiều nước trên thế giới, chúng ta thấy rằng các khoản vay không hiệu quả là một trong những nguyên nhân chính của suy thoái kinh tế lớn (Adebola, Wan Yusoff, & Dahalan, 2011). Do vốn có nguy cơ cao đã được cấp cho khách hàng vay không đủ tiêu chuẩn và các khoản vay này được đảm bảo chống lại nguồn đánh giá quá cao hoặc không có gì chống lại, và khi sự bùng nổ kinh tế này "phá sản" những khoản vay rủi ro cao biến thành nợ xấu và các khoản vay đã được trao cho khách hàng vay không đủ điều kiện những người biến thành nợ xấu, như một toàn bộ bộ sưu tập này của các khoản vay không thực hiện bất kể nguyên nhân của nó là một trong những yếu tố chính của suy thoái kinh tế tuyệt vời mà không chỉ cản trở ngành tài chính Mỹ mà còn nền kinh tế của toàn thế giới (Clugston, 2009) Theo như hệ thống ngân hàng của Pakistan được quan tâm nó đang đối mặt với rất nhiều vấn đề như các lĩnh vực ngân hàng của nền kinh tế kém phát triển khác và vấn đề phá hoại lớn nhất phải đối mặt của lĩnh vực ngân hàng Pakistan là số tiền rất lớn của các khoản vay không hiệu quả mà không chỉ làm tổn hại đến ngành ngân hàng Pakistan mà còn cản trở nền kinh tế Pakistan (Masood, 2009). Khối lượng nợ xấu đang tăng hàng năm như chúng ta có thể thấy rằng nợ xấu của ngành ngân hàng Pakistan là Rs. 176.770.000.000 và có tỷ lệ nhiễm 7,28 phần trăm và có những tăng lên Rs. 608.748.000.000 tháng 3 năm 2012 có tỷ lệ lây nhiễm 17.75percent (Ngân hàng Nhà nước Pakistan, 2012). Để giảm các khoản vay không thực hiện nó là cần thiết để tìm ra nguyên nhân gốc rễ của các khoản vay này. Trong bài báo này, chúng tôi sẽ làm nổi bật các yếu tố kinh tế của các khoản cho vay trong lĩnh vực ngân hàng Pakistan, gây nên các khoản nợ xấu bằng cách xem xét các ý kiến / nhận thức của các ngân hàng Pakistan. Phương pháp điều tra được sử dụng để có được các dữ liệu từ các ngân hàng, những người đang tham gia vào các quyết định cho vay hoặc quản lý rủi ro tín dụng, hồi quy và phân tích tương quan được áp dụng để truy cập các kết quả thực nghiệm. giấy còn lại được cấu trúc như sau: phần 2 bao gồm xem xét văn học. Phương pháp nghiên cứu được thảo luận trong phần thứ 3 tiếp theo là phân tích dữ liệu trong phần 4 và kết luận trong phần trước.
đang được dịch, vui lòng đợi..
