Từ một nước nhập khẩu mãn gạo trong năm 1980 Việt Nam đã tự chuyển đổi để xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới sau Thái Lan vào cuối năm 1990. Thành công này đột nhập vào thị trường thế giới đã tạo ra một thương mại-off mới cho ers policymak- của Việt Nam giữa việc đảm bảo đủ nguồn cung cấp gạo với giá cả phải chăng để người tiêu dựng trong nước trên một tay và tạo ra ngoại tệ từ xuất khẩu gạo trên khác. Cho đến gần đây, Chính phủ đã quy định do đó xuất khẩu gạo thông qua hạn ngạch xuất khẩu cả nước. Bài viết này xem xét các hậu quả kinh tế của việc loại bỏ gần đây của hạn ngạch xuất khẩu gạo. Cải cách này được nhìn thấy trong ánh sáng của những rào cản chính sách trong nước như hạn chế về tính di động đất liên ngành cũng như các rào cản chính sách quốc tế như biến dạng giới thiệu bởi các hiệp định thương mại ưu đãi.
Bằng cách mở rộng và sửa đổi một mô hình cân bằng tổng thể tính toàn cầu để được đại resent các tính năng này, nghiên cứu này cho thấy rằng các hạn ngạch xuất khẩu gạo đã được một công cụ chính sách strictive rất lại rằng đã giữ sản xuất và xuất khẩu thấp hơn tiềm năng gạo Việt. Hơn nữa, nghiên cứu cũng cho thấy rõ ràng rằng nỗ lực của Chính phủ để kiểm soát việc đa dạng hóa nông nghiệp bằng cách quản lý việc giao đất giữa các ngành khác nhau có nguy cơ dẫn đến một cơ cấu sản xuất nông nghiệp mà không phản ánh lợi thế so sánh của đất nước theo giá thị trường thế giới đi. Cuối cùng, về rào cản quốc tế tiềm năng xuất khẩu của nó, phân tích cho thấy rằng nếu Việt Nam đã nhận được sự điều trị cận thị trường ưu đãi tương tự như ví dụ như Ấn Độ, xuất khẩu sang Liên minh châu Âu sẽ tăng lên đáng kể.
đang được dịch, vui lòng đợi..
